Huấn Luyện Tính Dục Trong Nếp Sống Độc Thân Của Giáo Sĩ, Tu Sĩ

Năm Linh Mục: Huấn Luyện Tính Dục Trong Nếp Sống Độc Thân Của Giáo Sĩ, Tu Sĩ

Cuộc “Nổi loạn Tính dục” (Sex Revoluton), tại Hoa Kỳ vào năm 1960, và trên thế giới gây nên tang tóc đổ vỡ trong các gia đình, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã xâm nhập cả nơi thánh thiêng, tu trì, làm tiêu hao ngân quĩ của Giáo Hội, và giảm sút Ơn Thiên Triệu Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ.

Để giúp hiểu biết và giải quyết vấn đề từ nguồn gốc, trước tiên, cần giải thích về ý nghĩa của Tính Dục, hay Phái Tính, (Nam-Nữ)..., khởi nguyên đã được Mặc Khải từ Kinh Thánh trong Sách Sáng Thế và những Lời Giảng của Chúa Cứu Thế trong Sách Phúc Âm. Ngoài ra, ta cũng hiểu rằng: số kiếp con người theo bản năng tự nhiên, phú bẩm từ khi sinh ra, là một “hữu thể mang Phái Tính” (a sexual person), không thể huỷ diệt Tính dục của mình được, cho đến khi chết. Nhưng vì ý chí hùng mạnh của con người, -và dĩ nhiên cần Ơn Trên phù giúp- con người có thể “Thăng Hoa, hay Siêu Thoát” (Sublimation) Tính dục, như trong kinh nghiệm của các vị Thánh đã sống nếp sống “Khắc Khổ, Thần Nhiệm” (Ascetic and Mystic), chẳng hạn như gương Mẹ Chân Phước Teresa, Calcutta, hay Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô IsI. Khía cạnh Huyền Nhiệm, Thần Bí này, mới thực sự là phương cách Sống và Huấn Luyện cao nhất, để giúp Giáo sĩ, Tu sĩ và những ai “tu tại gia”, độc thân, góa bụa, hay có đôi bạn, muốn duy trì nếp sống Khiết Tịnh, Kết Nghĩa với Chúa.

Trong bài khảo luận này, xin bàn về hai khía cạnh đào luyện tự nhiên: triết lý, giáo dục.

  1. Suy tư của các vị hiền triết, đặc biệt của Văn Hóa Việt Nam, đã dùng Lý trí và Luơng Năng, Lương Tri, để tìm hiểu “Con Tim” của con người ra sao ?
  2. Mấy Kinh Nghiệm và Thực hành về Nếp Sống Tu trì, Độc Thân, đặc biệt tại Chủng Viện XUÂN BÍCH (Society of Priests of Saint Sulpice)

I. Suy Luận Triết Lý Về Bản Năng Tính Dục Của Con Người

Ngoài nguồn Mặc Khải trong Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo, nhiều Tôn giáo khác trên thế giới, từ xưa tới nay, và rất nhiều triết thuyết, triết gia, …cũng đã đề cập đến vấn đề Tính dục của con người. Mỹ Nghệ như Điện ảnh, Hội họa, Điêu khắc, Âm nhạc, nhất là Văn chương Thi Phú, tiểu thuyết, v.v. thật phong phú vô tận, để ca tụng Tình Ái giữa Nam-Nữ, Vợ-Chồng, vì như đã định nghĩa về yếu tính của Con Người là: “Một Hữu Thể mang Tính Dục, Phái Tính” (a sexual being, a sexual person). Mọi suy tư, cảm nghiệm, và hành vi cử chỉ đều biểu lộ đặc tính của Phái tính riêng của mình.

Dùng Lý trí, Lương Tri, Tình cảm để phân giải ý nghĩa về đời sống Tính dục của con người một cách vừa chân thật, thanh cao, vừa quân bình, tế nhị, thì ta phải kể đến Minh Triết ÂM-DƯƠNG, trong nền Văn Hóa Việt Nam.

MINH TRIẾT ÂM-DƯƠNG CỦA VĂN HÓA VIỆT

Trong một bài báo viết trên tờ The New York Times, và đăng lại trên tờ The Seattle Times (Dec/11/2005), nhan đề” Ơn Thiên Triệu gia nhập Giáo Hội vẫn còn mạnh mẽ đối với một số người” (The Call of Church remains strong for some) ký giả Neela Banerjee, đại ý, đã có những nhận xét khá xác đáng về Ơn Thiên Triệu của chủng sinh gốc Việt Nam hiện đang tu luyện tại các Chủng Viện tại Hoa kỳ. Họ chiếm tỉ lệ 12%, tức 397 chủng sinh, trong tổng số 3.308. Được hỏi lý do tại sao, người Công giáo Việt nam, và Cộng đồng Công giáo còn quí trọng Thiên Chức Linh Mục trong Giáo Hội? Họ trả lời: Tội lạm dụng Tính dục làm hoen ố cá nhân, chứ không giảm bớt giá trị của chính Ơn Gọi. Ơn Thiên Triệu vẫn là tuyệt đỉnh về Phục vụ và Thành công. Đó là một Hồng Ân của Chúa ban cho gia đình. Nếu được hỏi: muốn con làm Tổng thống, làm Bác sĩ hay Linh Mục, thì phụ huynh có thể sẽ trả lời: muốn con làm Linh Mục. Ký giả bài báo trên đã kết thúc cuộc điều tra, đại ý viết: Sở dĩ một thiểu số người Mỹ-Việt (chừng 1% tổng số người Công Giáo Hoa kỳ, hơn 50 triệu), đã cung cấp cho Giáo Hội một con số khá lớn về Ơn Gọi, chứng tỏ người Việt-Mỹ vẫn còn bám vào Truyền thống, Gia đình, và Đức Tin (the grip tradition, family, faith still have on many Việtnamese-Americans).

Ở đây, xin nhấn mạnh đến hai yếu tố: Truyền Thống và Gia đình, tức là đặc điểm thuộc VĂN HÓA Việt. Về Đức Tin, Giáo Lý thì người Công Giáo bất cứ ở đâu trên thế giới đều học và tin như nhau, tuy cách sống Đạo có khác biệt tuỳ sắc thái địa phương.

Trong vấn đề tìm hiểu và huấn luyện về Tính Dục cho các giáo sĩ, tu sĩ, ta không thể bỏ qua yếu tố Văn Hóa, tức Truyền thống và Gia Đình của người dân Việt. Chính Văn Hóa Việt đã giúp nẩy nở và nuôi dưỡng Ơn Thiên Triệu, trong khi Văn Hóa sự Chết (lạm dụng dục tính, phá thai...) đã làm đui chột mầm non Ơn Gọi nơi thanh thiếu niên.

Bởi vậy, việc nghiên cứu Triết Lý Âm-Dương làm nền tảng cho mọi suy tư, sinh hoạt văn hóa của dân tộc Việt nam, là hữu ích để giúp vào việc tìm cách huấn luyện Tính Dục cho các chủng sinh. Vậy Minh Triết ÂM –DƯƠNG là gì? Những đặc tính và âm hưởng của triết lý này trong đời sồng như thế nào? (Xin đọc thêm sách: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”, trang, coi Index: Âm-Dương ; và sách“Đạo Thiên Chúa và Dân Nước Việt”, trang 188-191; 276-282 )

ÂM- DƯƠNG là gì?

Theo các nhà dân tộc học, và khảo cổ, những chứng liệu khá vững chắc biện minh cho nguồn gốc Minh Triết ÂM-DƯƠNG phát xuất từ dân Việt, chẳng hạn, những bài khảo luận trong sách: “Tìm về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam” (Trần Ngọc Thêm). Ngày nay, chẳng những người Á đông, mà cả thế giới đều quen thuộc với hình vẽ”THÁI CỰC ĐỒ”, được trưng bày khắp nơi, trong nhà, trên bàn thờ, ngoài cửa tiệm. Đó là hình vẽ một vòng tròn lớn bên ngoài; bên trong vẽ một hình tròn nhỏ, chia ra hai phần bằng nhau, một bên màu đen chỉ ÂM, một bên màu trắng chỉ DƯƠNG; trong mầu đen, có một chấm Trắng; trong mầu trắng có một chấm Đen. Hai phần Đen-Trắng luôn bằng nhau về diện tích, nhưng luôn vận chuyển, đắp đổi cho nhau khi đầy, khi khuyết, nhưng vẫn giữ mực QUÂN BÌNH. Đây chính là biểu tượng cho Triết Lý ÂM-DƯƠNG ĐIỀU HÒA, đã được Qui Nạp thành Nguyên Lý, sau khi đã quan sát, và kinh nghiệm những hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ, nhân sinh. Nguyên lý ÂM-DƯƠNG còn được trừu tượng hóa bằng những nét gạch ngang: DƯƠNG là một nét gạch ngang liền (____); ÂM biểu thị bằng nét gạch ngang đứt (__ __).

Qua biểu tượng “Thái Cực Đồ”, trong Triết Lý ÂM-DƯƠNG, ta có thể suy diễn những đặc tính sau đây, có thể đem áp dụng để tìm hiểu đời sống Phái Tính, Dục Tính:

1/. Dân Việt, từ thượng cổ đã sinh sống gần thiên nhiên vì làm nghề trồng Lúa-Nước, nên đã quan sát các hiện tượng thiên nhiên như khí hậu, thời tiết trong trời đất, xoay vần nhịp nhàng điều hòa: Một năm bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày-đêm, nắng –mưa, nóng-lạnh, giúp cho mùa màng, gặt hái được nhiều hoa quả. Mọi loài sinh vật: thảo mộc, động vật, và cả Nhân loại, cũng bị chi phối bởi Luật Âm-Dương: Nam-Nữ, Đực-Cái, Trống –Mái... để truyền sinh và gây nòi giống

Từ hiện tượng thiên nhiên bước sang lãnh vực Nhân Sinh, Nhân Văn, muốn cho đời sống được Điều Hòa, con người cũng cần áp dụng Luật Âm-Dương trong cách giao tế xã hội, đặc biệt trong HÔN NHÂN như câu thường nói: Có Âm –Dương, có Vợ-Chồng” . Theo Văn hóa Việt Nam, Phái Tính Nam-Nữ, phải dẫn đến sự phối hợp vợ-chồng, thì đời sống con người mới có sự Hòa hợp, Quân bình. Âm-Dương, Vợ-Chồng... tuy hai yếu tố khác nhau, nhưng bổ khuyết cho nhau, nâng đỡ nhau, và không tiêu diệt nhau. Do đó, việc Hôn Nhân, tức sự kết duyên của một Người Nam với Một Người Nữ, là việc Tự Nhiên theo bản năng con người. Bởi vậy, Văn Hóa Việt Nam không thể chấp nhận “hôn nhân của hai người đồng tính” (?), vì trái luật tự nhiên Âm-Dương Điều Hòa. Hơn nữa, Hôn Nhân do Tạo Hóa an bài, xếp đặt, với mục đích để hai người khác nhau về Phái Tính, về thể lý, về tâm lý, nhưng bổ túc và tương trợ cho nhau trong cuộc sống lứa đôi: “Hai mà Một, Một mà Hai.

Trong suốt dòng Lịch sử, từ khi lập quốc, Văn hoá Hài Hòa cùa dân Việt, luôn ca tụng Tình Yêu Lứa đôi, tức Phái Tính trong đời sống Hôn Nhân, bằng những câu Ca dao, Tục ngữ, hoặc truyện Cổ tích như Trầu Cau, Sơn Tinh Thủy Tinh, Hòn vọng phu.., những bài Hát Quan họ Bắc Ninh, Hát Trống quân, Ca trù với tiếng đàn, điệu vũ, thanh cao thoát tục, nhưng không kém lưu luyến tình ái, để ca tụng đời sống vợ chồng, gia đình.

2/. Ngày nay, người Việt trong nước và ngoài nước, còn giữ được nếp sống Điều Hòa Quân Bình trong đời sống Lứa-Đôi, Vợ-Chồng như Tổ Tiên xưa kia không?

Tại hải ngoại, qua một thời gian giao động khi mới tới định cư trên đất khách quê người, nhưng sau 30 năm, người dân Việt chẳng những không mất bản lãnh, mà còn bảo tồn và phát huy Văn Hóa Truyền thống ngày càng tốt đẹp hơn, như bài báo của ký giả Neela Banerjee đã trích dẫn ở trên về Ơn Thiên Triệu của các Giáo sĩ tu sĩ. Phong trào trở về nguồn, học hỏi về Lịch Sử và Việt ngữ cũng được cổ động khắp nơi. Về Văn Nghệ, đặc biệt về Âm nhạc, nhiều buổi Trình Diển tân cổ nhạc, vũ điệu dân tộc được ghi thành những CD, như: Thúy Nga Paris By Night, Asia, v.v. giúp cho các gia đình thưởng thức những giờ giải trí lành mạnh, và nhất là giúp giáo dục thế hệ trẻ biết thông cảm với những tâm tình Yêu Mến Quê Hương, Gia đình, đặc biệt là TÌNH YÊU LỨA ĐÔI, trong Hôn Nhân, với hầu hết những bản tình ca, được các ca sĩ, nghệ sĩ trình diễn một cách chừng mực, tế nhị, giầu tình tứ, nhưng không suồng sã, “khiêu dâm” (sexy)như nhạc ngoại quốc giật gân.

Tại quê nhà, theo tin tức lọt ra ngoài, các giới đồng hương Việt nam cảm thấy thương xót cho tình trạng nghèo đói, tham ô, vô thần của một xã hội xáo trộn, mất Điều Hòa, Quân Bình trong đời sống Tâm Linh của cá nhân, hôn nhân, gia đình, nên mới gây nên những thảm cảnh như: “lấy chồng Đài loan”, hoặc buôn bán trẻ gái làm mãi dâm, ăn chơi trụy lạc, chuốc lấy bệnh HIV/AIDS đang lan tràn.

TÓM LẠI, một cách không quá đáng: nhờ Minh Triết Âm-Dương Điều Hòa soi sáng, ta có thể giải nghĩa tại sao một số lớn những giáo sĩ can tội “lạm dụng tính dục”, mà nạn nhân phần lớn lại là trẻ con, con trai, cùng phái tính với giáo sĩ. Vì người có khuynh hướng” đồng tính luyến ái”, mang một tâm trạng bất bình thường, nhất là không hiểu biết, không cảm nhận được giá trị của Hôn Nhân, của Cha-Mẹ, của Vợ-Chồng, của Con-Cái. Trong Văn hóa Việt Nam, bất cứ ở đâu, hầu hết dân chúng vẫn còn coi người có khuynh hướng “đồng tính”là chuyện bất thường và là một “tai nạn” cho Gia đình. Bởi vậy, theo quan điểm Văn Hóa Việt, việc Tòa Thánh không chấp nhận người có khuynh hướng đồng tính nhận chức Linh Mục, là xác đáng để tránh hậu họa. Không hiểu biết, không tôn trọng giá trị thánh thiêng của đời sống Hôn Nhân, thì không thể sống nếp sống độc thân, Khiết tịnh được.

II. Mấy Kinh Nghiệm Về Việc Huấn Luyện Tính Dục

Sau đây là mấy cách Tu Thân đã thực hành, giúp cho con người giữ được thế Quân bình, Điều hòa trong đời sống luân lý, và thể lý, đặc biệt để TIẾT DỤC, trong nếp sống Độc Thân.

Hơn nữa, Khổng giáo đã được các vua quan Việt nam noi theo làm khuôn mẫu cho việc tổ chức gia đình, làng Nước và chương trình đào luyện cấp lãnh đạo. Vì thế mới có những khuôn vàng thước ngọc phải noi theo như: Tam Cương, Ngũ Thường, tứ Đức tam Tòng. Có thể một số lời khuyên răn đã lỗi thời, những mục đích của việc Tu Thân, Tiết Dục vẫn không thay đổi. Vào thời buổi nào cũng vậy, sự Tiết Hạnh của người con gái, hay con trai, trước khi cưới nhau, vẫn là lý tưởng cao đẹp nhất

2/. “NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI” Là Gì?

Ngày nay, cụm từ “Nhà Đức Chúa Trời”, ra như xa lạ ngay cả đối với người công giáo. Theo tài liệu của “Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam”, tổ chức”Nhà Tu” này có thể đã được sáng lập từ thời các vị truyền giáo tiên khởi (Thời Cha Đắc Lộ..hay ĐGM Lambert de la Motte). Tổ chức này vẫn hoạt động mạnh cho đến năm chia đôi đất nước, năm 1954, tại các Giáo phận ngoài Bắc như: Hà Nội, Phát Diệm, Thanh hóa, Vinh, Hưng Hóa, hoặc với một hình thức tương tự như tại các Giáo phận: Bùi chu, Thái bình, Hải Phòng. Mục đích của Nhà Tu này là qui tụ những người nam, tình nguyện dấn thân lo việc truyền bá Phúc Âm trong Giáo Phận. Thành phần Nhà Đức Chúa Trời (Domus Dei) gồm có: Đức Giám Mục, các Linh Mục, các Thày Giảng, các Chủng sinh, (đang theo học tại các chủng viện) các Chú (giúp lễ cho Cha Xứ), và các Bõ (các người lớn tuổi giúp việc trong nhà Xứ). Tại các Giáo Xứ địa phương, mỗi Nhà Xứ gồm có: Cha Chính Xứ, một hay nhiều Cha Phó, các Thày giảng già, trẻ, một số đông các Chú giúp Lễ, và một số các Bô Bõ giúp việc.

Nếp sống tu trì như thế nào? Họ cam kết sống theo lời Khuyên của Phúc Âm: Khiết Tịnh (Độc Thân), Thanh bần, Vâng Lời. Mọi người sống chung trong một Nhà Xứ do cha Chính xứ làm Quản nhiệm điều hành mọi hoạt động mục vụ trong một Giáo Xứ. Mọi người cùng cầu nguyện chung, ăn chung, cùng ở chung nhà, và cùng chia nhau các phận vụ để phục vụ Giáo xứ. Vị Giám Mục cai quản toàn thể các Giáo Xứ trong Giáo Phận, cắt đặt hay thuyên chuyển các vị Chánh Xứ. Vị Giám Mục ngụ tại một trụ sở trung ương, thường gọi là “NHÀ CHUNG”, (ví dụ, Nhà Chung Hà Nội) nơi có Giám Mục cư trú, nhưng cũng là trụ sở vãng lai của các Linh Mục hay Thày giảng, chủng sinh, khi có việc cần nghỉ lại ít ngày.

Phương thức Huấn luyện nếp sống độc thân như thế nào? Khi các phụ huynh muốn dâng con mình để phụng sự Chúa và Hội Thánh, thì đem trình diện chú bé tuổi 12, 13 với một Linh Mục nhận làm “Cha Bảo trợ”. Trong một Nhà Xứ, cha chính hay cha phó được quyền “Làm cha quan thày” hay bảo trợ nhiều chú, tuỳ hoàn cảnh tài chính cho phép. Nhiều giáo xứ giầu có thể nuôi hàng chục chú bé cho ăn học, miễn phí. Cách thức bảo trợ, tuyển lựa này đã tạo nên một hệ thống gia đình thiêng liêng, gọi là “Linh Tông”, nghĩa là một Linh Mục từ khi chịu chức Linh Mục bắt đầu nhận bảo trợ một số chú bé, sau này nếu chú trở thành Linh Mục cũng sẽ nhận bảo trợ một số khác..thành ra có cha Cố, cha Bác, cha Chú và anh em cùng một Cha Quan Thày. Ngoài ra, các Linh Mục cũng được phép giới thiệu các thiếu nữ gia nhập các Dòng Nữ, nên hệ thống Linh Tông càng được mở rộng thêm, có Nam, Nữ đề huề.

Từ khi bước chân vào Nhà Xứ, Chú bé 12 tuổi đã có thể tham dự đầy đủ vào nề nếp sinh hoạt của một Cộng đồng tu sĩ. Chú được hoàn toàn tự do muốn ở lại tu hay xin trở về gia đình bất cứ lúc nào. Cho đến khi Chú được lên chức Linh Mục, trong khoảng thời gian thử thách và tu tập, chùng 15 năm (8 năm tiểu, trung học, 3 năm triết học, 4 năm Thần học), Chú có thể quan sát, chứng kiến nếp sống Độc thân của các Linh Mục, và các Thầy. Theo luật lệ của Địa Phận Hà Nội, được thi hành trong các Nhà Xứ, thì chỉ có người đi tu mới được sống trong khuôn viên Nhà Xứ. Phòng khách đặt ở ngoài cổng chính. Các Linh Mục không được phép tiếp phụ nữ trong phòng riêng-trừ bà mẹ ruột mới được vào phòng ngủ- (khi một chị giúp việc dọn phòng, thì Linh Mục phải ra khỏi phòng! Và ai sai lỗi luật này sẽ bị phạt vạ). Theo thống kê, từ khi làm Chú Bé cho đến khi chịu chức Linh Mục, tối đa chỉ được 4%, 5% là bền đỗ đến cùng. Khi sống trong Nhà Xứ với cha bảo trợ hay sau này chú bé vào học tại các Chủng Viện, câu châm ngôn làm khuôn vàng thước ngọc là: “Nunquam duo, semper tres” (nghĩa là: không bao giờ “Cặp đôi”, nhưng luôn “Cặp ba”, trong khi giao thiệp, chơi hay nói chuyện với bạn bè, để tránh dan díu” Đồng tính luyến ái”. Ngoài ra, để tập luyện và tự lượng sức mình có thể sống độc thân trinh khiết suốt đời được chăng, mỗi chủng sinh phải đi thực tập hai ba năm tại các Giáo Xứ: một năm sau khi mãn Trung Học, một hai năm sau khi tốt nghiệp Trường Triết học.

TÓM LẠI, Hệ thống “Nhà Đức Chúa Trời”, tại các Giáo Phận Miền Bắc Việt Nam, là một tổ chức mang nhiều sắc thái Văn hóa Việt, và chịu ảnh hưởng của các đạo giáo địa phương như Khổng giáo, Phật giáo, chẳng hạn danh từ: Cụ, (Cha) Thày, Cha Bác, Cha Chú, Chú (chủng sinh), thì bên Nhà Phật có: Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bác, và Chú Tiểu). Các Linh Mục trong Giáo Hội Công Giáo gồm có: các Linh Mục Dòng (như ĐaMinh, Phan Sinh, Dòng Tên, Dòng Chúa Cứu Thế), và các Linh Mục Địa Phận (diocesan Priest, tiếng bình dân gọi là “Cha Triều”). Các Cha Dòng do Nhà Dòng đào tạo, nâng đỡ, và sống chung trong Tu Viện của Dòng. Còn các Cha Địa Phận do Giám Mục huấn luyện trong các Chủng viện, và sai đi quản nhiệm trong các Giáo Xứ. Như tình trạng hiện nay, tại Hoa kỳ, Pháp... các Linh Mục Địa phận sống trong các Giáo Xứ, vừa lẻ loi, cô độc, không có cộng đoàn “Nhà Tu” (như kiểu: NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI”) nâng đỡ về nếp sống độc thân, cho nên dễ sa ngã. Bởi vậy, Kinh Nghiệm Tu Thân Tu Đức về Đức Trinh Khiết của NHÀ ĐỨC CHÚA TRỜI, -dầu cần cải tiến về nhiều phương diện cho hợp thời-, là một Nếp Sống Độc Thân của các Linh Mục Việt Nam, rất đáng trân trọng, vì giúp bảo tồn, nuôi dưỡng và phát triển Ơn Thiên Triệu cho các Giáo Phận hiện nay đang thiếu các Linh Mục coi các Giáo Xứ.

3/. HUẤN LUYỆN NẾP SỐNG ĐỘC THÂN TRONG CHỦNG VIỆN XUÂN BÍCH

Hội các Linh Mục Xuân Bích (Dịch từ: Society of Priests of Saint Sulpice) là gì?

Hội này do Linh Mục Jean-Jacques OLIER (1608-1657) sáng lập, năm 1641 tại “Giáo Xứ Saint Sulpice ở Paris (Pháp), hiện vẫn còn hoạt động. Gần 400 năm nay, Mục đích của Hội, là qui tụ một số Linh Mục đồng chí hướng, để cùng nhau, vừa làm việc mục vụ trong các Giáo Xứ, vừa chuyên chú vào việc huấn luyện, đào tạo các Linh Mục cho các Giáo Phận . Khẩu hiệu của Hội là”PER MARIAM AD JESUM (Nhờ Mẹ Maria, đến cùng Chúa Cứu Thế). Hiện nay, Hội Các Linh Mục Xuân Bích, quản trị và giảng dạy tại các Đại Chủng Viện trên thế giới như: tại Pháp; tại VIỆT NAM (từ năm 1930, ở Hà Nội; năm 1954, ở Vĩnh Long, và Thị Nghè (Sàigòn), từ năm 1960, ở HUẾ, và Đà Nẵng. Tại Trung Hoa (ở Côn Minh, năm 1930, đóng cửa năm 1949); tại HOA KỲ (ở Baltimore, ở Washington D.C, Saint Patrick’Seminary, ở Menlo Park, CA,.: tại Nhật (Fukuoka), tại Canada, Columbia, Venezuela, Brezil (Nam Mỹ), Benin, Congo, Zambia (Phi Châu), Tahiti (Polynesie)

(Xin Lưu Ý: Quí Vị muốn biết thêm về Hội các Linh Mục Xuân Bích, tại HOA Kỳ, xin liên lạc Địa chỉ: Rev. Thomas R. Ulshafer, S.S. Phone: 410-323-5972)

Hiện nay, các Chủng Viện Xuân Bích, tại HOA KỲ, huấn luyện các chủng sinh về Tính Dục trong Nếp Sống Độc Thân, Khiết Tịnh, như thế nào?

Sau khi phát hiện cuộc khủng hoảng về lạm dụng Tính dục nơi các giáo sĩ trong các Giáo phận tại Hoa Kỳ, Toà Thánh và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã làm việc tích cực để đối phó với các vụ kiện, và bồi thường cho các nạn nhân. Hội Các Linh Mục Xuân Bích quan tâm đặc biệt về tình trạng khủng hoảng này, vì Hội trực tiếp tham gia việc huấn luyện, và giáo dục các chủng sinh cho các Giáo phận. Hội đã mở những buổi Hội thảo, huấn luyện cho các hội viên và bắt buộc các hội viện ký nhận cam kết thi hành “Chính Sách đối với Hành Vi Cử Chỉ Xấu về Tính Dục” (Policy on Sexual Misconduct)

a/ Sau đây chỉ xin trích dẫn một số cách thức đề phòng, hoặc tránh những cử chỉ, thái độ suồng sã, “khiêu gợi”, khi tiếp xúc với giới phụ nữ, thanh thiếu niên nam nữ, vị thành niên, hay trẻ nhỏ, (dưới 18 tuổi, Minors). Cũng kể vào loại “Minors” là những người lớn, nhưng chậm tiến, mắc bệnh thần kinh, hay khuyết tật.

- Mọi người cộng tác với Hội Xuân Bích trong các Chủng Viện, Chương Trình Huấn luyện.. đều bắt buộc phải tham dự chương trình dạy cách phòng ngừa những Hành vi cử chỉ xấu về Tính dục. Mọi Hội viên trong Hội Xuân Bích phải ký một tờ Cam Kết chịu Trách Nhiệm (an Affidavit of Responsibility), thi hành Chính Sách của Hội.

- Hội Xuân Bích cam đoan tích cực giáo dục các chủng sinh, đặc biệt các chủng sinh làm việc mục vụ với trẻ nhỏ (Minors), cần phải tránh những Hành vi Cử chỉ xấu về Tính dục, Sách nhiễu Tính dục, Động chạm, Khai thác, Lạm dụng Tính dục.

- Hành vi Cử chỉ Xấu về Tính dục (Sexual Misconduct) là: những lời nói bất hợp pháp, bất xứng hay những cách cư xử khiêu gợi dục tính- Sách nhiễu Tính dục (Sexual Harassment) là dùng lời nói hay hành động khiêu gợi kích dâm để tống tình, hay yêu cầu được chiều đãi thỏa mãn Dục Tính, để được tăng lương, lên chức, thi đậu. Sách nhiễu Tính dục sẽ tạo nên tình trạng đe dọa, sợ sệt nơi sở làm việc, và phá rối công việc học hành, hay tu trì.- Động chạm khêu gợi (Sexual Contact)là những hành vi động chạm với mục đích kích dâm, khêu gợi như sờ mó vào đùi, cơ quan sinh dục, mông hay ngực...- Khai thác Dục Tính (Sexual Exploitation) là những đụng chạm kích dâm giữa một vị giáo sư, Linh hướng, cố vấn... với sinh viên, bất kể ai khêu gợi trước.-Lạm Dụng Tính Dục một Trẻ Vị thành Niên (Sexual Abuse of a Minor) là dùng bạo lực, đánh lừa, quyến dũ một thiếu niên làm Hành vi động chạm khiêu dâm, bất kể ai khởi sự việc xấu đó.- Hành Vi Liên Hệ đến việc Lạm Dụng Tính Dục đối với Trẻ vị thành niên (Related Acts of Misconduct with a Minor) là những hành vi cử chỉ, tự nó không phải là hành vi khiêu dâm, nhưng có liên hệ, trong một bối cảnh mục vụ, giảng dạy, làm việc, chẳng hạn như: đánh tát, phát vào mông, nói chuyện tiếu lâm gợi dục, cho dùng dụng cụ khiêu dâm, khỏa thân, hôn môi, đấm bóp, vật lộn, ngủ chung giường, hay chỗ ở chật hẹp, ngủ qua đêm không có phép của phụ huynh, cố chấp trao đổi những hành vi, lời nói về ái tình, nhưng gây khó chịu bất mãn cho người khác, cho phép hoặc cung cấp rượu mạnh, cần sa ma tuý, hoặc giám sát thiếu niên khi đang say rượu, say thuốc phiện.-Những Cử Chỉ tỏ Tình Âu Yếm đối với Trẻ Nhỏ ( Certains signs of affection or approval in relation to a minor) vì không bất xứng, nên không cấm như: vỗ vai, vỗ lưng, bắt tay, đập vào tay, khen ngợi, quàng vai, và dắt tay em bé đi dạo chơi, cúi xuống ôm em bé. Trong hoàn cảnh này, cần lưu ý đặc biệt đến sắc thái Văn Hóa, phong tục tập quán của các sắc tộc

b/ Huấn luyện chủng sinh hay nhân viên có trách nhiệm coi sóc các Trẻ Nhỏ

Hội Xuân Bích đặc biệt lưu tâm, và khuyến khích những chủng sinh hay nhân viên tham dự những lớp huấn luyện chuyên môn do các Giáo phận địa phương tổ chức. Ngoài ra, dầu chưa có lý do để tin là đã xẩy ra việc “Lạm Dụng Tính dục đối với Trẻ Nhỏ”, nhưng nếu ai khám phá thấy những dấu hiệu khả nghi về cách giao thiệp không lành mạnh của một Hội Viên Xuân Bích, thì phải lập tức báo cáo cho vị Bề Trên địa hạt hay Tỉnh Dòng biết liền.

c/ Xử dụng Internet Hội viên Xuân Bích, ban giáo sư, và chủng sinh phải dùng máy computer thuộc Chủng Viện, hay của riêng cá nhân hay người khác, một cách hợp pháp và hợp luân lý. Hội Xuân Bích không dung thứ cho việc dùng Internet, e-mail vào những Hành vi xấu về Tính dục, vô luân hay bất hợp pháp. Hội Xuân Bích dành quyền khám xét các tài liệu dự trữ (files) của các nhân viên Văn phòng và các chủng sinh, khi xét thấy cần phải làm, để bảo vệ sự an toàn, và lành mạnh của một Cộng đoàn hay là để điều tra về những lời cáo buộc về Hành vi xấu về Tính dục.

d/ Hội Xuân Bích cam kết hợp tác thi hành những Điều Luật của Liên Bang, của Tiểu Bang, của Địa phương và của Giáo Luật và các thủ tục đã phác họa trong Chính Sách của Hội Xuân Bích. Mỗi hội viên Xuân Bích có nhiệm vụ phải tránh những hành vi xấu về Tính dục, lại phải phòng ngừa và bảo vệ các nạn nhân của Lạm dụng Tính dục.

ĐỂ TẠM KẾT, Cổ nhân đã nói: “Thời thế nào, kỷ cương nấy”. Ngày trước, xã hội Việt nam tương đối được an hòa, nề nếp, nhờ Minh Triết Âm-Dương Điều Hòa: “Thuận Vợ thuận Chồng tát Biển Đông cũng cạn”. Người “xuất gia tu hành” cũng được xã hội trọng vọng, không gặp nhiều khó khăn, nhiều trở ngại, cám dỗ. Tổ chức “Nhà Đức Chúa Trời” đã là nơi nương náu, tu trì của bao tâm hồn khát vọng đi tìm Nguồn hạnh phúc chân thật nơi Nhà Chúa. Ngày nay, trong một thế giới tục hóa, với cơn bão “cách mạng Dục Tính” làm tan hoang, xáo trộn đến cả nơi thánh thiêng. Do đó, muốn cứu vãn tình thế, cần những luật lệ chặt chẽ, nghiêm minh để bảo vệ Nếp sống tu trì, độc thân khiết tịnh. Trên đây là những cố gắng và ưu tư của Hội các Linh Mục Xuân Bích giúp huấn luyện hàng Giáo sĩ đối phó với cuộc khủng hoảng về Tính dục. Những biện pháp thực hành, những lời chỉ giáo rất hữu ích để nâng đỡ những ai muốn cam kết chấp nhận nếp sống Khiết Tịnh Độc thân, vì Tình Yêu Thiên Chúa và Tha Nhân.

Nhờ Ơn Chúa phù giúp, với ý chí tự do kiên trì, các vị Chân Tu đã có thể “Siêu Thoát”, hay “Thăng Hoa” đời sống Tính dục tự nhiên, lên “Nếp Sống Khiết Tịnh”, chính là nếp sống Khắc Khổ và Thần Nhiệm (Ascetic and Mystic) để kết nghĩa hoàn toàn với Chúa.

Nguồn: xuanbichvietnam

Lm Đường Thi



+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối" "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Related Posts with Thumbnails

Tìm kiếm trên website MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Loading

Danh sách bài đã đăng