KINH THÁNH CĂN BẢN

I. MẶC KHẢI VÀ SÁCH THÁNH

1. Ðâu là nguồn gốc của Sách Thánh?

"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2Pr 1,4). Trong việc mặc khải này, với tình thương chan chứa của Người, Thiên Chúa vô hình (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ (x. Br 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Người" (MK 2).

Thiên Chúa đã nói với loài người khi nào, qua ai?

"Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Giê-su)" (Dt 1,1-2).

Thiên Chúa đã nói cách đây hàng mấy chục thế kỷ, làm sao tôi có thể nghe được hôm nay?

"Thuở xưa" Lời Chúa phán dạy đã tạo thành một dân tộc được tuyển chọn để nghe và giữ lời Thiên Chúa. Lời ấy đã được lưu giữ trong giáo huấn, đời sống và phụng tự của Dân Thiên Chúa trong thời Cựu Ước và đã được ghi chép thành Sách Thánh, tức là sách Cựu Ước.

Còn lời Thiên Chúa đã phán qua Thánh Tử Giê-su đã được truyền lại cho chúng ta nhờ sứ vụ của các Tông Ðồ: "Hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế, các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Ki-tô, khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại Tin Mừng cứu rỗi dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh thần" (MK 7). Ðó là sách Tân Ước.


2. Làm sao biết được đây là Sách Thánh?

Hàng ngày trong khi cử hành phụng vụ, sau khi đọc Sách Thánh, người đọc hô lên: "Ðó là Lời Chúa", và toàn thể cộng đoàn đáp lại: "Tạ ơn Chúa." Ðó là một lời tuyên xưng đức tin. "Sách Thánh là Lời Chúa nói. Vì được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần" (MK 9). Như vậy thì chỉ có Thánh Thần mới có thể làm cho Hội Thánh nhận ra "đó là Lời Chúa".

Trong Hội Thánh, Chúa Giê-su đã trao cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị quyền giáo huấn để "dạy người ta tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền" (x.Mt 28,20), và đã ban Thánh Thần cho các vị này để thi hành sứ mạng (x.Ga 20,21-22). Thánh Thần đã dùng các vị này để giúp cộng đoàn Hội Thánh dần dần xác định những sách nào là Sách Thánh. Vào thế kỷ IV Hội Thánh Công Giáo đã có những bản kê khai các sách được nhìn nhận là Sách Thánh: đó là quy điển, tức là những sách được Thánh Thần linh hứng và có giá trị để Hội Thánh quy chiếu vào đó mà biết những gì phải tin và những gì phải thực hành trong đời sống. Ngày nay Hội Thánh Công Giáo vẫn trân trọng tôn kính, giữ gìn và tuyên đọc Lời Chúa trong bộ Sách Thánh gồm phần Cựu Ước và Tân Ước.

-Ơn linh hứng là gì ?

 Linh: thuộc về Thánh Thần. Hứng: được cảm xúc đánh động.

Linh Hứng: Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần ban cho những người viết ra Kinh Thánh. Những vị viết Kinh Thánh đã được  Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để biết cách dùng tài năng riêng mà viết những điều Thiên Chúa muốn và chỉ viết những điều Thiên Chúa muốn. Nhờ đó, Kinh Thánh chứa đựng sự thật cứu độ, dạy ta những gì cần biết để sống đầy đủ ý nghĩa làm người và đạt tới hạnh phúc tuyệt đối.

Người ta thường nói các tác giả Kinh thánh là những người được linh hứng. Nếu hiểu đúng từ linh hứng, mọi việc sẽ sáng tỏ. Linh hứng không phải là mặc khải. Cần phân biệt rõ hai từ này. Thật vậy, Kinh thánh không phải là sách được mặc khải mà là được linh hứng. Khi nói về mặc khải trong Kinh thánh, người ta thường hiểu về nội dung sứ điệp. Nội dung này được mặc khải nhưng không phải bản văn : nội dung được mặc khải còn bản văn được linh hứng. Linh hứng nghĩa là được ơn trên soi sáng, nhưng sách không phải được viết sẵn từ trời đưa xuống, không thiếu một dấu chấm, dấu phẩy, nhưng là do người phàm viết ra với các đặc tính cá nhân của con người ấy. Thiên Chúa linh hứng qua nhân cách, tư tưởng, năng khiếu, tâm tình ý nghĩ của người ấy. Tất cả những thứ này đều không ảnh hưởng đến bản chất của sứ điệp và giá trị nội tại của sứ điệp cũng không bị tiêu hủy vì các đặc tính của tác giả phàm nhân.

Do đấy, toàn bộ Kinh thánh, nội dung cũng như hình thức, tư tưởng, danh từ phát xuất bởi hai nguồn hoạt động, không phải xếp cạnh nhau mà chồng lên nhau, đó là Thiên Chúa và người phàm. Soạn giả Kinh thánh, dù khi được linh hứng cũng không phải một cái máy chữ. Tác giả vẫn còn giữ nhân cách của mình, vẫn là mình với tính tình và ý tưởng riêng. Thiên Chúa không xô đẩy mà chỉ dùng những thứ đó để chuyển đạt sứ điệp của Người. Đó là điều rất đáng quí cho loài người chúng ta. Chúng ta chỉ nhìn vào bốn tác giả sách Tin Mừng cũng thấy như thế.


3. Quy điển Kinh thánh

Dựa vào truyền thống tông đồ, Hội thánh ấn định danh mục các sách được nhìn nhận là Sách Thánh. Danh mục đó được gọi là Quy điển Kinh thánh, gồm 46 sách Cựu ước và 27 sách Tân ước.


4. Tại sao gọi Kinh thánh là Lời hằng sống?

Kinh thánh chính là Lời của Thiên Chúa mặc khải cho loài người qua sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Hội thánh do được ủy quyền, đã tiếp tục giảng dạy cho muôn dân biết Thiên Chúa luôn có mặt và sống động trong lịch sử, để một khi đã tin vào Người thì loài người được sống mãi trong tình yêu Thiên Chúa. Vì thế, Kinh thánh là Lời ban sự sống và làm cho người ta, nếu vững tin thì được sống đời đời.


5. Sách Thánh trong đời sống của Ki-tô hữu

"Hội Thánh luôn tôn kính Sách Thánh như chính Thân Thể Chúa. Nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để ban phát cho các tín hữu" (MK 21).

Lời Chúa và bí tích Thánh Thể là hai cách hiện diện của Chúa Ki-tô Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Lu-ca gợi cho chúng ta điều ấy trong câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau: Họ thấy lòng mình bừng cháy khi Chúa Giê-su nói với họ và giải nghĩa Sách Thánh cho họ trên đường, và họ nhận ra Người khi Người "cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ" (x. Lc 24,13-32).

Công Ðồng Va-ti-ca-nô II đã nhắc lại lời thánh Giê-rô-ni-mô: "Không biết Sách Thánh là không biết Chúa Ki-tô" rồi khuyến khích các tu sĩ "hăng hái tiếp xúc với chính bản văn Sách Thánh" và khẳng định: "Các giám mục có phận sự dạy dỗ cách thích hợp cho các tín hữu đã được trao cho mình biết sử dụng đúng đắn Sách Thánh, nhất là Tân Ước và trước tiên là các sách Tin Mừng, nhờ các bản dịch. Các bản dịch này phải được kèm theo những lời giải thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Hội Thánh có thể sử dụng Sách Thánh cách bảo đảm và ích lợi, và được thấm nhuần tinh thần Sách Thánh" (MK 25).


II. GIAO ƯỚC

Thánh Kinh là cuốn sách kể lại lời giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với con người. Mặc dù rất xa chúng ta về thời gian và không gian, đối với các tín hữu Kitô, giao ước này vẫn luôn mang tính hiện tại. Thiên Chúa là Đấng đã tỏ mình ra cho con người và có sáng kiến kết thân với họ. Ngài đã tỏ mình qua các Tổ Phụ, qua Môi-sen và các Ngôn sứ, rồi sau cùng qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Sự tỏ mình trải qua các thời đại này được thực hiện bởi CÁC GIAO ƯỚC. Có một tiến triển từng bước trong việc ký kết Giao ước để đạt tới mức hoàn thiện là GIAO ƯỚC MỚI ký kết trong Máu Đức Kitô Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Như thế, Thiên Chúa đã nhập cuộc, đã tự  hạ mình trở nên đối tác của con người khi ký kết giao ước với họ. Giao ước này cho thấy mối liên hệ thân tình giữa Thiên Chúa với con người, một mối liên hệ đã trải qua những biến cố vui buồn, thất bại, nỗ lực. Đó là một chặng đường dài để vươn tới tình yêu và tự do.


1. Thiên Chúa: đối tác của con người

Giao ước theo nghĩa chung là mối quan hệ hỗ tương giữa hai đối tác trong lãnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế và xã hội. Nguyên tự  Do thái, Giao ước được dịch bởi chữ berit có nghĩa là “giữa đôi bên – xẻ làm đôi”. Chữ này cũng diễn tả nghi thức thường được cử hành trong các cuộc ký giao ước: xẻ đôi một hy tế (thường là súc vật) qua đó muốn ám chỉ :nếu một bên vi phạm điều cam kết thì cũng sẽ bị xẻ đôi, tức là phải chết như vậy. Cũng có trường hợp giao ước được thực hiện với một vật được cắt đôi, mỗi bên giữ một nửa để làm tin hoặc như một thứ bùa cam kết tuân giữ những gì được giao kèo giữa hai bên. Một văn bản giao ước cổ nhất ngoài Thánh Kinh đã được tìm thấy trong tài liệu cổ của vùng Mari (một thành phố cổ nằm ở tả ngạn sông Euphrate, được khai quật từ năm 1933) nhắc tới việc xẻ đôi một con lừa con để ký kết giao ước giữa bộ lạc Hanéen và người Idamaraz.

Giao ước (berit) có thể được ký kết giữa hai cá nhân (x. St 21,22-32: giao ước giữa Apraham và vua Avimelech); có thể được ký kết giữa hai bộ lạc hay hai dân tộc (2 S. 3,13; 1V 5,26: giao ước giữa vua Salômon và vua Khiram); có khi được ký kết giữa một vua nước lớn với một nước chư hầu. Trong trường hợp này, không có sự cân bằng bình đẳng giữa hai bên ký giao ước. Bên mạnh hơn hứa bảo đảm sẽ đỡ đầu hoặc bảo vệ cho bên yếu thế hơn với một số điều kiện. Giao ước giữa Đức Gia-vê và Israel có thể so sánh với giao ước kiểu này, tức là giao ước giữa một vương quốc với một nước chư hầu.

Với việc Thiên Chúa ký kết giao ước với Dân Ngài, Ngài đã chấp nhận trở nên một “đối tác” với con người. Ngài đòi buộc con người phải thực thi những bổn phận của Giao ước, tức là những gì đã cam kết và Ngài chấp nhận thực thi những gì được cam kết để tỏ bày sự trung tín của Ngài đối với mọi loại thụ tạo. Giao ước đầu tiên trong Thánh Kinh là Giao ước với Ong Nô-ê, sau khi nước Hồng thuỷ đã cạn. Trong Giao ước này, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bao giờ tái diễn thảm họa của Đại Hồng thuỷ. Với việc thiết lập Giao ước với Nô-ê, Thiên Chúa đã đặt ông làm cha của cả một dân tộc mới, dân tộc được tái sinh sau Hồng Thuỷ.


2. Nét đặc trưng của Giao ước trong Thánh Kinh

- Dấu hiệu của Giao ước: mỗi khi thiết lập giao ước với con người, Thiên Chúa tạo nên một dấu để nhắc nhớ điều đã cam kết. Cầu vồng xuất hiện trên vòm trời trong Giao ước với Nô-ê vừa để Thiên Chúa nhớ lại Giao ước đã ký kết với mọi sinh vật, mọi xác phàm trên mặt đất, đồng thời cũng là lời nhắc nhở con người hãy chú trọng thực thi những gì do Giao ước đòi buộc. Trong Giao ước ký kết với Abraham, dấu hiệu này chính là nghi thức cắt bì nơi mọi đàn ông con trai thuộc dòng dõi của ông, kể cả những người nô lệ. Phép cắt bì được kể như chính điều tuân giữ giao ước: “đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì” (x St 17,9-14 ); Để ghi nhớ  lời chúc phúc của Thiên Chúa đối với Gia-cóp, ông đã lấy một hòn đá dựng lên làm trụ và xức dầu lên trên. Chính nơi đây, Thiên Chúa đã đổi tên Gia-cóp thành Israel (St 28,18; 36,9-15).

- Lễ vật để ký kết giao ước: những lễ vật này thường là các loài gia súc và các loài chim được coi là thanh sạch (trường hợp Giao ước với Nô-ê, St 8,20). Những lễ vật phải được chọn lựa kỹ càng và đôi khi số lượng mang tính tượng trưng. Với Abraham, Thiên Chúa đã ra những chỉ dẫn cụ thể: “ Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con bê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15,9). Trong trường hợp ký kết giao ước tại núi Sinai, lễ vật còn kèm theo lệnh truyền toàn dân phải giữ mình khỏi nhiễm uế ba ngày trước khi ký kết giao ước(Xh 19-10). Máu bò được rảy trên tế đàn và trên dân  như lời cam kết từ hai phía, giống như “uống máu ăn thề” (Xh 24,6).

- Thần hiện (Epiphanie): Mỗi lần ký kết giao ước, Thánh Kinh lại cho chúng ta thấy sự hiển hiện của Thiên Chúa ở một góc độ khác nhau. Có lúc mạnh mẽ và có lúc nhẹ nhàng, có khi trong tiếng sấm ầm ầm vang dậy và cũng có khi  trong làn gió hiu hiu. Ngài tỏ hiện để tuyên bố những điều cam kết, những lời hứa hẹn và động viên: “Hỡi Ap-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn !” (St 15,1). Trong những lần ký kết giao ước này, Thiên Chúa còn tỏ hiện qua mây, lửa, khói; cùng với tiếng tù và vang dậy. Lửa từ trời xuống thiêu huỷ của lễ như dấu hiệu cho thấy của lễ đó đẹp lòng Chúa và được Ngài chấp nhận.


3. Bộ Luật Giao ước (Giao ước Sinai)

Bộ luật Giao ước, đó là khái niệm của Thánh Kinh để chỉ Giao ước Thiên Chúa đã ký kết với Israel qua trung gian Ông Môi-sen trên núi Sinai. Sau khi chứng kiến Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài bằng cánh tay hùng mạnh, Dân Do Thái khiếp sợ, tâm phục khẩu phục đối với Môi-sen và không dám xầm xì trách móc nữa. Tháng thứ ba sau khi ra khỏi Ai-cập, Thiên Chúa đã ký kết Giao ước này. Những chương 20-34 trong sách Xuất hành ghi lại những điều luật của Giao ước này. Nội dung của Giao ước gồm những điều liên quan đến Luật tế tự, tôn giáo và luân lý xã hội. Những điều khoản liên quan đến công bằng trong Luật Giao ước có nhiều điểm tương đồng với những bộ luật Đông phương thời cổ xưa như bộ lạc Hammurabi, người Asryria và Hê-tê.

Bộ luật Giao ước được “dạo đầu” bằng Mười Điều răn, như những điều chính Thiên Chúa đã long trọng tuyên bố. Có hai trình thuật về Mười Điều răn:  Xh 20,2-17 và Đnl 5,5-21. Mặc dù có một số dị biệt giữa hai trình thuật, nội dung của Mười Điều răn có thể chia ra ba phần: cấm thờ phượng các thần và ngẫu tượng ngoài Thiên Chúa; lệnh truyền tuân giữ ngày Sa-bat; một chuỗi những lời dạy về trách nhiệm tôn trọng tha nhân.

Những lệnh truyền và tuyên bố này đặt trên nền tảng Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân Do thái ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Đối với mọi người Israel, biến cố ra khỏi Ai-cập và vượt qua biển đỏ là bước ngoặt lịch sử quan trọng làm cho Dân “kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa và tin vào Ong Môi-sen, tôi trung của Người” (Xh 14,31). Quả vậy, nếu Thiên Chúa có ra những lệnh truyền, những đòi buộc là vì Ngài là Đấng đã giải phóng dân, đã cứu dân ra khỏi nô lệ. Công thức : “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập” còn được sử dụng nhiều lần trong Cựu ước. Đó chính là lý do qua đó Thiên Chúa truyền lệnh và  dân có bổn phận phải nghe Lời Ngài. Với Luật Giao ước, Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa sáng tạo, mà còn là Đấng giải phóng. Chân lý này được triển khai sâu sắc hơn sau này trong giáo huấn của các Ngôn sứ. Nếu Thiên Chúa đòi buộc Israel phải trung thành, phải đi theo lệnh truyền của Ngài, là vì Ngài là Đấng đã tạo thành và cứu thoát họ.


4. Giao ước mới trong Đức Kitô

Ý niệm cứu thoát được thể hiện rõ nét hơn nữa qua Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể. Trong mộng báo với Giuse, sứ thần  đã cắt nghĩa tên của Hài nhi sắp được thụ thai trong lòng Đức Maria: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Đức Giêsu đến để thiết lập giao ước mới. Bản thân Người chính là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Bởi lẽ những gì cần nói với con Người, Thiên Chúa nói qua Đức Kitô. Sự “đồng-hiện-hữu” của thiên tính và nhân tính nơi Đức Giêsu Kitô cho thấy nơi Người một “berit” hoàn hảo. Trong Người, Thiên Chúa đã ký kết một giao ước. Giao ước này không chỉ được ký kết qua nghi thức lễ tế một con vật hay máu bò như thời Cựu ước, nhưng là chính máu của Con Thiên Chúa. Qua hy tế của Đức Giêsu trên thập giá, Thiên Chúa đã huỷ bỏ bản án nguyên tội để thiết lập một giao ước hòa bình với con người. Trong Máu Đức Giêsu, con người tìm lại được ơn tha thứ và giao hòa. Cây Thập giá đã liên kết trời với đất (chiều dọc) và đất với đất (chiều ngang) để thiết lập mối thân tình giữa Thiên Chúa với con người và xây dựng một thế giới huynh đệ, bốn bể là anh em. Bàn thờ của Giao ước mới chính là Thập giá Đức Kitô (x. Sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 1182). Các tác giả Phúc âm đều trình bày bữa tiệc ly như bữa tiệc ký kết giao ước mới trong máu Đức Kitô. Chính Người đã tuyên bố điều ấy: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thày, máu Giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,27-28). Tác giả Luca còn ghi rõ ràng: “chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thày, đổ ra vì anh em” (Lc 22,20). Như vậy, Giao ước cũ đã hết thời để nhường chỗ cho giao ước mới: Phụng vụ xưa phải được thay, này đây nghi lễ mới (kinh Tantum Chầu Thánh Thể). Tác giả thư  Do Thái sau này đã suy tư về vấn đề này: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình. Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò….còn thánh hóa được họ, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy… Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (x.Dt 9, 12-14).


5. Dân của Giao ước mới

Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào dân Israel mới, dân của Giao ước. Bởi lẽ máu Đức Kitô đổ ra trên thập giá không những hòa giải Thiên Chúa với con người mà còn hòa giải người Do thái với dân ngoại. Là dân ngoại, chúng ta được trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô, được trở thành con cái Abraham trong đức tin. Phaolô đã quả quyết điều này như sau: “vậy trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở thành những người ở gần” (Ep 2,13).


III. CỰU ƯỚC


1. Nguồn gốc các sách Cựu Ước

a. Cựu ước là gì?

Cựu ước là giao ước xưa Thiên Chúa thiết lập với dân Do Thái, qua ông Môsê, trong sa mạc, gần núi Xi-nai, sau khi đã cho ông biết Danh Người là Đức Chúa và giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập (Xh19,24). Giao ước này là nền tảng của đạo Do Thái, còn gọi là đạo cũ. Theo giao ước, dân Do Thái phải tôn thờ và phụng sự Chúa là Chúa duy nhất của họ bằng cách tuân giữ các điều răn của Người; còn về phía Thiên Chúa, Người hứa nhận dân này làm dân riêng, sẽ che chở, bảo bọc và thương yêu họ (Xh 20,1-21).

b. Nội dung phần Kinh thánh Cựu ước

Trong Kinh thánh, phần Cựu ước ghi chép những mặc khải trước khi Chúa Giêsu ra đời. Sách Cựu ước chứa đựng những điều Chúa nói với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cho đến khi ông Mô-sê đuợc Chúa truyền phải đưa dân ra khỏi Ai-cập và nhận muời điều răn trên núi Xi-nai. Sau đó Thiên Chúa còn tiếp tục nói với dân Người qua các ngôn sứ.

"Thiên Chúa chí ái đã ân cần trù liệu và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại theo một kế hoạch lạ lùng: Người đã tuyển chọn một dân tộc để ủy thác những lời ước hẹn. Quả vậy, sau khi lập Giao Ước với ông Áp-ra-ham (x. St 15,18) và với dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê (x. Xh 24,8), Thiên Chúa đã dùng lời nói, việc làm mặc khải cho dân Người đã chọn, để họ biết Người là Thiên Chúa độc nhất, chân thật và hằng sống, và nghiệm thấy đâu là đường lối Thiên Chúa đối xử với loài người. Thiên Chúa còn phán dạy họ qua các ngôn sứ để ngày qua ngày, họ thấu hiểu các đường lối ấy sâu xa và rõ ràng hơn hầu đem phổ biến rộng rãi nơi các dân tộc (x. Tv 21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gr 3,17). Vì thế chương trình cứu độ được các tác giả Sách Thánh tiên báo, thuật lại và giải thích đã trở thành Lời Chúa đích thật trong các sách Cựu Ước. Bởi vậy các sách được Thiên Chúa linh hứng này luôn có một giá trị vĩnh viễn: "Vì những gì đã được ghi chép là để dạy dỗ chúng ta, hầu chúng ta được hy vọng nhờ sự kiên nhẫn và nhờ sự an ủi của Sách Thánh" (Rm 15,4) (MK 14).

Phần Cựu ước gồm có 46 sách


2. Tại sao các Ki-tô hữu phải đọc Cựu Ước?

"Các Ki-tô hữu phải thành kính đón nhận các sách Cựu Ước, vì các sách này diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Người, những tư tưởng khôn ngoan về đời sống con người, những kho tàng kinh nghiệm tuyệt diệu, và sau cùng, ẩn chứa mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta" (MK 15).

"Thiên Chúa là Ðấng linh hứng và là tác giả các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước, đã khôn ngoan sắp xếp cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước. Thực vậy, dù Ðức Ki-tô thiết lập giao ước mới bằng máu Người (x. Lc 22,20; 1Cr 11,25) nhưng các sách Cựu Ước vẫn được sử dụng trọn vẹn trong sứ điệp Tin Mừng, đạt được và bày tỏ đầy đủ ý nghĩa trong Tân Ước (x. Mt 5,17; Lc 24,27; Rm 16,25-26; 2Cr 3,14-16). Ngược lại Tân Ước cũng được sáng tỏ và giải thích nhờ Cựu Ước" (MK 16).


3. Ki-tô hữu đọc Cựu Ước thế nào?

a. Cựu Ước cũng là Lời Chúa nói với chúng ta, như chúng ta vẫn tuyên xưng trong Phụng Vụ.

b. Các sách Cựu Ước thuộc nhiều thể loại văn chương khác nhau, do đó khi đọc cần chú ý đến thể loại của từng cuốn sách hoặc từng phần. Thí dụ 11 chương đầu sách Sáng thế đã gây bao vấn đề chỉ vì người ta ngộ nhận cho đó là thể loại lịch sử. Ngay cả các sách gọi là lịch sử cũng không phải là lịch sử theo quan niệm thực nghiệm (kể lại đúng như các sự kiện xảy ra) nhưng là lịch sử cứu độ, nghĩa là tìm đọc ra ý nghĩa cứu độ, sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong các diễn biến lịch sử.

c. Tính cách tiệm tiến của mặc khải khiến cho các sách Cựu Ước còn nhiều điều chưa hoàn toàn, và chỉ có giá trị cho một giai đoạn. Ðọc Mt 5-7 hoặc 19,1-9 chúng ta thấy rõ điều đó. Hiến Chế về Mặc Khải cho chúng ta nguyên tắc này: "Thích ứng với hoàn cảnh nhân loại sống trước thời cứu độ do Chúa Ki-tô thiết lập, các sách Cựu Ước trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai, con người là ai, đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người như thế nào, tuy có nhiều điều khiếm khuyết và tạm bợ, nhưng các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa" (MK 15). Theo nguyên tắc tiệm tiến ấy, "Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước" (MK 16). Vì thế người Ki-tô hữu đọc Cựu Ước phải đối chiếu với Tân Ước để hiểu cho đúng Chúa muốn dạy mình điều gì.


IV. TÂN ƯỚC

1. Tân ươc là gì?

Tân ước là giao ước mới do Thiên Chúa tái lập với loài người, qua Đức Giêsu Kitô, theo Lời Người hứa, để tha thứ cho họ tội bất trung và thất tín. Giao ước mới là do lòng trung thành và yêu thương của Thiên Chúa đối với dân của Người, để hướng dẫn họ bước đi theo luật Người truyền. Đây là giao ước vĩnh cữu, Chúa Giêsu thiết lập trong bữa Tiệc ly.


2. Nội dung phần Kinh thánh Tân ước

Sách Tân ước là phần mặc khải chính yếu về Thiên Chúa qua cuộc đời Đức Kitô cùng với những lời giảng dạy và việc làm của Người. Đức Giêsu mặc khải cho ta biết Người là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai giáng trần để nói với loài người về Nuớc Thiên Chúa và phần rỗi của nhân loại. Tuy vậy, Tân ước cũng chỉ ghi được một số điều liên quan tới những việc cần phải nói, chứ không thể ghi nhận được hết tất cả những điều Đức Giêsu đã nói hay những việc Người đã làm. Vì như Thánh Gioan viết: “Còn nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm.Nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế gian cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra “ (Ga 21,25).


3. Qui Ðiển Tân Ước

 Nguồn gốc danh từ Cựu Ước và Tân Ước: Tân Ước xuất hiện dưới hình thức một bộ sách gồm 27 cuốn, viết bằng tiếng Hi Lạp và mỗi cuốn dài vắn khác nhau rất nhiều. Mãi cuối thế kỷ thứ hai người ta mới quen gọi bộ sách ấy là "Tân Ước". Vì các sách trong bộ này, dần dần đã được uy tín rất cao, nên trong thực hành, người ta coi ngang hàng với các bản văn Cựu Ước, mà từ lâu, Kitô hữu vốn coi là bộ Thánh Kinh duy nhất của họ và đặt  tên cho là "Lề Luật và Ngôn Sứ" theo thói quen Do Thái đương thời. Sở dĩ gọi chung bộ sách này là Tân Ước, cốt yếu là vì các nhà thần học Kitô Giáo đầu tiên, theo chân Thánh Phaolô (2C3, 14), đã nhận xét rằng: các bản văn ấy bao hàm những qui định của một Giao Ước Mới, phải chỉ huy mọi tương quan giữa Thiên Chúa và dân của Ngài, trong giai đoạn cuối cùng của lịch sử Cứu Ðộ. Gọi như thế, là muốn nhận định rằng: Giao Ước cũ, ký kết với ông Môi Sen, bây giờ Chúa Giêsu đã vừa đổi mới, vừa vượt quá đi rồi.

Sau khi Ðức Giêsu về trời, nhịp cầu duy nhất nối liền các Kitô hữu với Ðức Giêsu là các Tông Ðồ, những chứng nhân về toàn bộ cuộc đời trần thế của Người. Các Tông Ðồ chủ yếu làm chứng bằng lời rao giảng (Cv 6,2-4; Rm 10,14-15), nhờ đó đức tin được khơi dậy và nuôi dưỡng trong lòng các tín hữu.

Có hai yếu tố khiến cho các Kitô hữu nghĩ đến chuyện phải viết lại những chứng từ về Ðức Giêsu:

a. Trước hết là sự bành trướng của Kitô giáo sau quyết định của hội nghị ở Giêrusalem năm 49 (Cv 15). Cả một thế giới bao la của dân ngoại mở ra, Giáo Hội không còn chỉ đóng khung ở quanh Giêrusalem, nhưng đã vươn tới những miền xa tắp. Các Tông Ðồ phải liên tục đi nhiều nơi nên việc liên lạc bằng thư từ với các Giáo Hội trở nên cần thiết. Các thư của thánh Phaolô là một thí dụ về việc này.

b. Kế đó là việc các Tông Ðồ dần dần trở nên già yếu và qua đời. Làm sao bảo tồn được những chứng từ về lời nói và việc làm của Ðức Giêsu? Hơn nữa, nhu cầu huấn giáo cũng đòi hỏi việc sắp xếp lại những chứng từ truyền khẩu cho có hệ thống. Thế nên đã có những sưu tập, truyền khẩu cũng như thành văn; đây là những chất liệu cho các tác giả viết Tin Mừng sau này.

Trong khoảng thời gian hơn một thế kỷ, đã xuất hiện nhiều tác phẩm của các Kitô hữu. Vấn đề được đặt ra rõ nét từ giữa thế kỷ II là vấn đề xác định xem đâu là danh sách những tác phẩm cần được bảo tồn và coi như sách thánh, nói cách khác, đó là xác định thư quy của Tân Ước. Có một vài tiêu chuẩn hướng dẫn công việc này:

- Tác phẩm phải bắt nguồn từ các Tông Ðồ thì mới được nhận vào thư quy. Như các ngôn sứ xưa đã loan báo Ðức Giêsu nhờ ơn linh hứng (2 Pr 1,20-21), thì Nhóm Mười Hai (và Phaolô) giờ đây cũng làm chứng về sự hoàn tất viên mãn, nhờ cùng một ơn linh hứng đó (Cv 2,17-18).

- Phần lớn các sách Tân Ước đều được viết cho những cộng đoàn Kitô hữu nhất định, nên lịch sử và tầm quan trọng của một cộng đoàn cũng giúp nhiều cho việc bảo tồn một tác phẩm và thậm chí cho việc nhận tác phẩm đó vào thư quy. Dường như Tin Mừng Matthêu được gửi cho các cộng đoàn ở Xyria, và họ đã làm tốt nhiệm vụ này. Các Giáo Hội ở Hylạp và Tiểu Á có lẽ đã bảo trì các tác phẩm của thánh Phaolô và thánh Gioan. Giáo Hội ở Rôma đã bảo trì Tin Mừng Máccô và thư gửi tín hữu Rôma.

- Tác phẩm phải phù hợp với quy luật đức tin. Chẳng hạn như Tin Mừng của thánh Phêrô không được đưa vào thư quy vì có thể dẫn đến lạc giáo.

Dần dần có một sự nhất trí. Ở Ðông Phương, năm 367, thánh Athanaxiô, giám mục Alêxanria chấp nhận thư quy gồm 27 cuốn như ta ngày nay. Ở Tây Phương, "sắc lệnh của đức Ðamaxô" do công nghị Rôma công bố (năm 382) cũng chấp nhận như vậy. Thư quy coi như đã được ấn định vào cuối thế kỷ IV. Năm 1546, công đồng Trentô đã tái khẳng định thư quy của toàn bộ Kinh Thánh.

Ta thấy một tác phẩm được nhận vào thư quy vì nó là bản văn được linh hứng, nhưng ta chỉ biết chắc chắn là nó được linh hứng khi nó được nhận vào thư quy. Giáo Hội trước khi nhận vào đã phải suy nghĩ về truyền thống được coi là bắt nguồn từ các Tông Ðồ, đó là tiêu chuẩn để chọn lựa.


4. Các Ngụy Thư Tân Ước

Người ta đã dành tiếng ngụy thư tức là sách thiếu chính nghĩa, bị coi là bao hàm những ý tưởng ngoại lai đối với tư tưởng chính đàng hoàng của Giáo Hội. Về sau người ta kể là ngụy thư các sách Giáo Hội từ chối, không căn cứ giáo lý và đức tin của mình vào đó. Các sách này, cả khi được khuyên giáo hữu đọc riêng vì đặc tính xây dựng của nó, nhưng trong giờ phụng tự công khai thì không được dùng. Từ ngày đó, tiếng ngụy thư hàm ý rõ ràng là xấu. Các ngụy thư bị coi là truyền bá sự sai lầm.

Dù giá trị văn chương của nó thế nào đi nữa, các ngụy thư Tân Ước vẫn là sách tuyệt vời quí báu, giúp nghiên cứu đà tiến hóa các tư tưởng tôn giáo trong thế kỷ thứ 2 và thứ 3. Khi thư quy được xác định, một số lớn tác phẩm không được kể vào thư quy này. trong đó có cả những tác phẩm nổi tiếng, thậm chí đã từng được một số vị có thẩm quyền công nhận là sách thánh, như sách Giáo Huấn của mười hai Tông Ðồ (cuối thế kỷ I hay đầu thế kỷ II), Người Mục Tử của Hécmát (đầu thế kỷ II, Rôma), thư của Banaba, hai thư của Cơlêmentê. Các tác phẩm này được bảo tồn cẩn thận và ngày nay vẫn được xếp vào các tác phẩm có giá trị của Giáo Hội buổi đầu.

Ta có thể chia các ngụy thư thành bốn loại như các sách trong Tân Ước:

- Các sách Tin Mừng: Tin Mừng của thánh Phêrô (tìm thấy một mảnh ở Aicập vào năm 1886), Tin Mừng của thánh Tôma, nay được chia làm 114 câu trong đó có 79 câu gần giống với Tin Mừng Nhất Lãm... Các Tin Mừng này ít nhiều mang dấu vết của phái ngộ giáo (gnosticisme), phái này cho rằng chỉ có việc giác ngộ mới đưa con người đến ơn cứu độ. Ngoài ra còn có Tin Mừng thời thơ ấu của thánh Tôma và Tiền Tin Mừng của thánh Giacôbê, hai tác phẩm này mang nhiều yếu tố huyền hoặc, lạ lùng.

- Các sách Công Vụ: Công Vụ của thánh Anrê chịu ảnh hưởng của ngộ giáo qua việc lên án hôn nhân và nhấn mạnh đến bản tính thiêng liêng của con người. Công vụ của thánh Gioan, Công Vụ của thánh Phaolô, Công Vụ của thánh Phêrô, Công Vụ của thánh Tôma. Nói chung tác giả các sách Công Vụ thích khai thác những yếu tố kỳ diệu, lạ lùng trong cuộc đời vị Tông Ðồ mà họ muốn ca ngợi.

- Các thư: Thư thứ ba gửi tín hữu Côrintô, Thư gửi tín hữu ở Laođikia, Thư của các Tông Ðồ. Nội dung của các thư này không có gì đặc sắc (trừ Thư của các Tông Ðồ) và giống với những bài luận bàn về thần học hơn là những lá thư.

- Các sách khải huyền: sách Khải Huyền của thánh Phêrô kể lại việc Ðức Giêsu chỉ cho các môn đệ thấy những miền ở thế giới bên kia, chỗ ở của kẻ dữ và hình phạt họ phải chịu. Còn sách Khải Huyền của thánh Phaolô lại xoay quanh thị kiến của thánh nhân được nói đến ở 2 Cr 12,2.


5. Bản Văn Tân Ước

Hơn 5,000 thủ bản sao lại bằng tiếng Hi Lạp

Bản văn 27 cuốn làm thành bộ Tân Ước, ta biết được nhờ rất nhiều thủ bản, soạn bằng những ngôn từ rất khác nhau và hiện nay còn giữ lại trong các thư viện tản mát khắp hoàn cầu. Trong mọi thủ bản này, không có cuốn nào là tự tay tác giả; nên tất cả đều là những bản sao đi sao lại các thủ bản ngày xưa, đã do chính tác giả tự mình viết ra hay là đọc cho thư ký viết. Mọi sách Tân Ước, không trừ cuốn nào, đều viết bằng tiếng Hi Lạp và hiện có trong ngôn ngữ này hơn 5,000 thủ bản, mà những cuốn cổ hơn đã viết trên chỉ cảo, và những cuốn khác viết trên da giấy. Trên chỉ cảo, thì ta có những phần đôi khi rất nhỏ trong Tân Ước mà thôi.


V. MÔI TRƯỜNG TÂN ƯỚC

Bộ Tân Ước đã được viết ra trong một hoàn cảnh đặc biệt, vào lúc đế quốc Rôma đang đặt nền đô hộ trên nhiều phần đất, trong đó có xứ Paléttin. Ðể có thể hiểu rõ các bản văn hơn, chúng ta cần biết về bối cảnh xã hội, chính trị, tôn giáo của đế quốc Rôma cũng như của xứ Paléttin, nơi Ðức Giêsu, Ngôi Lời làm người, đã sinh sống. Ðế quốc Rôma là một đế quốc rộng lớn, gồm những nước vây quanh Ðịa trung Hải. Ðế quốc này trực tiếp kế thừa đế quốc Hylạp do Alêxanđê đại đế gây dựng nên. Tuy mang lớp vỏ Rôma nhưng trong thực chất vẫn là nền văn minh Hylạp.

Vào thời Ðức Giêsu, vùng đất Paléttin gồm có ba phần: Galilê ở phía bắc, Samari ở giữa, và Giuđê ở phía nam. Phía tây là Ðịa Trung Hải, phía đông là dòng sông Giođan chảy từ hồ Galilê xuống biển chết. Thiên Chúa đã chọn mảnh đất nhỏ bé này làm nơi diễn ra lịch sử cứu độ toàn thể nhân loại. Con Thiên Chúa đã trở nên một người Dothái, đảm nhận toàn bộ dòng lịch sử của dân tộc Người, một dân tộc sau khi bị lưu đầy ở Babylon lại rơi vào sự thống trị của người Batư, rồi đến người Hylạp và sau cùng là người Rôma.


 1.Chính trị
             Trước việc vua Antiôkhô IV (175-164 trước CN) xúc phạm đền thờ, anh em nhà Macabê đã vùng lên khởi nghĩa và cuối cùng đã giành lại được độc lập cho đất nước trong khoảng gần một thế kỷ. Ðó là triều đại nhà Átmônê (142-63 trước CN). Vào cuối triều đại này, có sự tranh giành quyền làm vua và làm thượng tế giữa hai anh em Hiếccanô và Aríttôbulô, điều này đã nên cớ cho tướng Pompê của Rôma chiếm thành thánh (năm 63), mở đầu cho giai đoạn Rôma đô hộ.

Ðức Giêsu mở mắt chao đời khi hoàng đế Augúttô đã trị vì đế quốc Rôma được 20 năm, ông này khai mở một thời kỳ tương đối ổn định trên toàn phần đất của đế quốc rộng hơn ba triệu cây số vuông.

Riêng ở Paléttin, nghị viên Rôma đã đặt Hêrôđê, còn gọi là Hêrôđê Cả, làm vua từ năm 40 trước CN, nhưng phải đợi đến năm 37 ông này mới chiếm được Giêrusalem và cai trị ở đó. Hêrôđê không phải là người Dothái, ông đã giết những người thân với nhà Átmônê để bảo vệ ngôi vàng. Cũng vì tính đa nghi, ông còn giết cả người vợ Dothái là bà Mariammê cũng như ba trong số các con trai của ông. Dưới thời của ông, thượng hội đồng Dothái mất hết cả ảnh hưởng; chính ông tự cho mình có quyền bổ nhiệm và cách chức thượng tế. Khi Ðức Giêsu sinh ra (vào năm 6 hay 7 trước CN) thì Hêrôđê đã ở vào những năm cuối đời. Theo Tin Mừng Mátthêu, Người đã phải trốn qua Aicập vì bị Hêrôđê lùng bắt (Mt 2,13). Có nhiều công trình được xây dựng ở khắp nơi trong nước dưới thời Hêrôđê; nhất là từ năm 20 trước CN, ông đã cho trùng tu lại đền thờ nhỏ bé được xây sau thời lưu đày (x. Mc 13,1).

Khi vua Hêrôđê qua đời năm 4 trước CN, vương quốc được chia cho ba người con trai. Hêrôđê Antipa được làm tiểu vương vùng Galilê và vùng Pêrê (Lc 3,1). Chính ông này đã giết Gioan Tẩy Giả vì Gioan không chấp nhận việc ông lấy vợ của người anh là Hêrôđê Philípphê (Mt 14,4). Ông cũng là người nhúng tay ít nhiều vào vụ án Ðức Giêsu (Lc 23,6-16). Ông đã xin Rôma phong vương cho mình, nhưng rốt cuộc ông đã bị hoàng đế Caligula cất chức năm 39 sau CN. Người con khác là Philípphê (không phải là Hêrôđê Philípphê) được làm tiểu vương các vùng Ðông Bắc của hồ Galilê (còn gọi là hồ Tibêria). Cuối cùng là Áckhêlao (Mt 2,22), người mà vua Hêrôđê Cả muốn truyền ngôi vua cho, nhưng Rôma không chấp thuận, chỉ cho ông cai quản vùng Giuđê, Samari và Iđumê. Vì bị người Dothái và Samari khiếu nại, Áckhêlao đã bị Rôma hạ bệ năm 6 sau CN. Phần lãnh thổ của ông được giao cho tổng trấn Rôma, từ đây chế độ cai trị trực tiếp của người Rôma được thiết lập trên đất Giuđê.

Trong số các tổng trấn đầu tiên, phải kể đến Philatô (26-36 sau CN), ông này chịu trách nhiệm về cái chết của Ðức Giêsu xảy ra vào năm 30. Ông bị người Dothái căm ghét vì có những hành vi khiêu khích, coi thường tôn giáo của họ. Sau vụ ra lệnh tàn sát nhiều người xứ Samari, Philatô bị cách chức. Khi Cơlauđiô lên làm hoàng đế vào năm 41, ông dẹp bỏ chức tổng trấn và đưa một người bạn ông là cháu của Hêrôđê Cả lên làm vua: đó là vua Ácríppa I, Paléttin lại trở về với chế độ tổng trấn và mang tên chính thức là Giuđê. Có hai vị tổng trấn liên hệ ít nhiều đến Phaolô, đó là Phêlích (Cv 23,24) và Phéttô, ông này đã gửi Phaolô đến Rôma để được xét xử ở đó với tư cách là công dân Rôma (Cv 25,12).

Từ thời tổng trấn Phêlích (52-60), các cuộc nổi loạn trong dân Dothái đã trở nên thường xuyên hơn và mảnh liệt hơn. Tháng sáu năm 66, cuộc xung đột bùng nổ và gặp sự đàn áp mạnh mẽ của người Rôma. Vào lễ Vượt Qua năm 70, tướng Titô đem bốn quân đoàn vây hãm Giêrusalem. Tháng tám năm 70, đền thờ bị chiếm và thiêu hủy. Từ đó Giuđê trở thành một tỉnh thuộc hoàng đế giống như tỉnh Xyria.

Chỉ hơn nửa thế kỷ sau, người Dothái lại nổi dậy một lần nữa (132-135) khi hoàng đế Hátrianô ban chiếu chỉ cấm việc cắt bì. Cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan sau khi đã kháng cự ác liệt với quân Rôma. Chính ở vị trí cũ của đền thờ, người ta xây một ngôi đền kính thần Dớt. Từ năm 135, tỉnh Giuđê được gọi là tỉnh Xyria Paléttin.


2.Các nhóm xã hội
            Vào thời Ðức Giêsu, có sự cách biệt khá lớn giữa những thành phần trong xã hội. Có một thiểu số giàu có, đó là những người thuộc dòng họ Hêrôđê, những dòng tộc tư tế lâu đời ở Giêrusalem và các trưởng ty quan thuế. Ngược lại số người nghèo chiếm đa số. Nhân dân bị người Rôma bắt phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng. Nhiều người bị thất nghiệp (Mt 20,1-7), nhiều người phải di cư đi nơi khác làm ăn. Cũng có một giai cấp trung lưu, nhưng số này không đáng kể. Họ là những tư tế ở vùng quê, thợ thủ công hay chủ các nông trại nhỏ. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến một vài giai cấp điển hình trong xã hội Dothái.


*Giới tư tế


              Ðứng đầu giới tư tế là vị thượng tế, vị này là thủ lãnh của dân, là tác viên chính trong phụng tự ở đền thờ và là người chủ tọa thượng hội đồng Dothái gồm 71 thành viên. Trước kia chức vụ này được trao theo lối cha truyền con nối và làm đến mãn đời. Nhưng dưới thời Rôma cai trị và dưới triều đại của vua Hêrôđê Cả, những đặc quyền này đã bị tước mất. Rôma có thể bổ nhiệm hay cách chức vị thượng tế tùy ý họ, thế nên vị thượng tế đang tại chức dễ có thái độ lụy phục đối với Rôma. Dù vậy dân chúng vẫn tỏ lòng tôn kính người mà coi họ là trung gian chính thức giữa Thiên Chúa và dân Người. Mỗi năm một lần, vị thượng tế được vào Nơi Cực Thánh trong đền thờ để làm lễ xá tội cho dân.

Viên quản đốc đền thờ (Cv 4,1; 5,24) là phụ tá của thượng tế trong phụng tự và thay mặt thượng tế khi cần. Ông này cũng coi sóc an ninh trật tự đền thờ với sự trợ giúp của các đội trưởng toán quân.

Các tư tế cấp dưới sống ở thánh đô hay rải rác trong nước. Người ta ước chừng có 7.200 tư tế. Mỗi năm họ tụ về Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Họ còn chia làm 24 nhóm, thay phiên nhau phục vụ trong đền thờ, mỗi năm hai lần, mỗi lần kéo dài một tuần (x. Lc 1,5.8-9). Các tư tế sống nhờ của lễ dâng cúng. Tư tế ở thủ đô có đời sống sung túc hơn; còn các tư tế ở những nơi khác sống nhờ thuế thập phân, nhưng thường vẫn phải làm một nghề chân tay mới đủ sống.

Cuối cùng là các thầy Lêvi. Họ không phải là tư tế nên không được cử hành phụng tự. Họ chỉ lo phận vụ ca hát, sử dụng nhạc khí, giữ cửa, bảo quản và bảo vệ đền thờ.


*Giới kinh sư


               Ðây là những người sau nhiều năm nghiên cứu lâu dài đã trở thành những nhà chuyên môn về Kinh Thánh. Một số nhỏ kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là giáo dân ủng hộ lập trường Pharisêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân vì trong thời lưu đày, khi đền thờ và triều đình sụp đổ, người ta chú trọng đến việc học hỏi và sống luật Chúa. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng luật cho hoàn cảnh mới. Có thể nói họ là những người kế tục sự nghiệp của các ngôn sứ. Họ hướng dẫn đời sống tinh thần của dân, còn tư tế chủ yếu chỉ lo phụng tự. Các kinh sư có mặt ở hội đường và càng lúc họ càng chiếm một vị thế quan trọng hơn trong thượng hội đồng Dothái bên cạnh các thượng tế và kỳ mục.

Các kinh sư đã đưa ra nhiều luật lệ chi li để giúp con người lúc nào cũng được mời gọi sống trung tín với Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng dễ rơi vào một thứ óc nệ luật hẹp hòi, khiến cho việc giữ luật trở thành gánh nặng và làm cho người ta quên đi cái cốt yếu của luật. Dù sao chính nhờ các kinh sư mà Dothái giáo còn tồn tại sau biến cố năm 70.


*Giới kỳ mục


             Ðây là những người có địa vị trong xã hội, họ là những bậc niên trưởng hay phú ông. Tuy có chân trong thượng hội đồng nhưng họ không có ảnh hưởng là bao. Vì muốn được tại vị nên họ khá gắn bó với Rôma cũng như với các thượng tế. Dường như họ thuộc phái Sađốc.


*Dân chúng


            Ða số là nông dân, thợ thủ công hay tiểu thương. Có nghề bị coi là ô uế như nghề thuộc da, có nghề bị coi khinh như nghề thu thuế. Cũng có cả hành khất, trộm cắp và gái điếm ở Paléttin vào thời Ðức Giêsu. Người Dothái được miễn thi hành nghĩa vụ quân sự đối với đế quốc. Nô lệ là giai cấp bị ngược đãi nhất, nhưng các nô lệ gốc Dothái thường được đối xử tử tế hơn và có thể được trả tự do sau sáu năm phục vụ.

Ở trong nước và nhất là ở hải ngoại, người ta thấy có những người xin gia nhập đạo Dothái (Mt 23,15). Trước khi trở thành tân tòng, nam giới phải chịu cắt bì, được thanh tẩy và đi dâng lễ tại đền thờ. Số phụ nữ tòng giáo luôn đông hơn đàn ông.

Ở Paléttin thời Ðức Giêsu, người phụ nữ không có giá bằng nam giới. Thế giới của họ chỉ là gia đình với các việc nội trợ. Họ không được đi học cả về mặt đạo lẫn mặt đời. Họ không được mời làm chứng tại tòa án cũng như không được lên tiếng trong các nghi lễ phụng tự. Họ ít khi đi ra ngoài và nếu có ra ngoài thì thường đội khăn che đầu. Theo tập tục thời đó, người đàn ông không nên nhìn một phụ nữ đã có chồng, cũng không nên trò chuyện hay chào hỏi một phụ nữ ở ngoài đường. Các thiếu nữ Dothái lập gia đình rất sớm. Họ làm đám hỏi lúc 12 hay 13 tuổi và thường làm đám cưới khoảng một năm sau. Người vợ có thể bị chồng ly dị chỉ vì những lý do không đáng gì. Sau khi chồng chết, người vợ góa phải chờ xem người anh em chồng có muốn lấy mình không, nếu người này không muốn, người vợ góa mới được đi lấy chồng khác. Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta hiểu hơn một số đoạn Tin Mừng như Mt 22,23-32 và Lc 7,36-50. Việc có một nhóm phụ nữ đi theo Ðức Giêsu (Lc 8,2-3) hẳn là một điều lạ thường vào thời đó.


3.Các nhóm tôn giáo


            Có bốn nhóm chính:


            *Nhóm Sađốc


            Nhóm này gồm giới giáo sĩ cấp cao, phần lớn các tư tế ở Giêrusalem và nhiều kỳ mục. Nét chung của họ là tính bảo thủ, họ chống lại mọi thay đổi về mặt thần học, phụng tự hay chính trị. Họ có thái độ hòa hoãn với người Rôma, có thể là để duy trì địa vị, bổng lộc. Dầu sao càng ngày họ càng xa rời dân chúng, uy tín của họ chỉ dựa trên chức vụ tư tế mà họ đảm nhận. Bởi vậy khi đền thờ sụp đổ năm 70, nhóm này cũng biến mất khỏi lịch sử.

Xét về mặt giáo thuyết, nhóm Sađốc phủ nhận thưởng phạt đời sau và sự phục sinh (Mt 22,23; Cv 23,6-8), bởi họ gắn bó với quan niệm truyền thống về âm phủ. Họ không coi trọng các luật truyền khẩu nhu nhóm Pharisêu, nhưng lại hết sức trung thành với nghĩa đen của Kinh Thánh. Họ quý chuộng đặc biệt Ngũ Thư hơn mọi sách thánh khác. Ðức Giêsu cũng đã có lần tranh luận với họ về sự phục sinh (Mc 12,18-27).


*Nhóm Pharisêu


            Ðây là một nhóm gồm đa số là dân thường thuộc giai cấp trung lưu, tuy cũng có các tư tế vùng quê và các thầy Lêvi tham dự. Không phải mọi người Pharisêu đều là kinh sư, nhưng hầu như mọi kinh sư đều là Pharisêu. Ý nghĩa của từ pharisaioi còn được tranh luận; nhiền người cho rằng nó có nghĩa là "những kẻ sống tách biệt", từ đó có lối gọi "biệt phái". Nhóm này bắt nguồn từ nhóm những người đạo đức (Hassidim) ở thời Macabê. Vào thời Ðức Giêsu, các người Pharisêu rất được kính trọng vì chính đời sống đạo đức của họ. Họ họp thành những cộng đoàn nhỏ, đóng kín. Họ chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và quyết tâm tuân giữ tỉ mỉ mọi khoản luật, thành văn cũng như truyền khẩu. So với nhóm Sađốc, họ có tinh thần cởi mở hơn về mặt giáo lý và giải thích Kinh Thánh. Khuôn mặt người Pharisêu được mô tả trong Tin Mừng không phản ảnh hết sự thực về nhóm người này. Có lẽ Ðức Giêsu lúc còn bé đã được các người Pharisêu dạy giáo lý và cầu nguyện ở hội đường Nadarét. Hẳn đã có những người Pharisêu kiêu hãnh và giả hình, nhưng thái độ tưởng mình có thể mua được Nước trời bằng công trạng và sự thánh thiện của mình vẫn là thái độ mà chúng ta có thể rơi vào.


*Nhóm Étxênô


              Năm 1947 nhờ một khám phá tình cờ ở vùng Cumran (tây bắc Biển Chết), người ta biết đến sự hiện diện của một nhóm người Dothái, sống chung với nhau thành cộng đoàn: có thể đó là nhóm Étxênô mà sử gia Dothái Giôxêphô đã nhắc đến. Có lẽ nhóm này bắt nguồn từ thời Macabê khởi nghĩa. Ðây là một nhóm được tổ chức hết sức chặt chẽ và có tôn ti trật tự. Họ sống nghèo khó, vâng phục những người lãnh đạo và ở độc thân. Những việc chính của họ hằng ngày là: cầu nguyện sáng chiều. lao động chân tay, thanh tẩy theo nghi thức và dành một phần ba đêm để học hỏi Kinh Thánh và các tài liệu của cộng đoàn. Khám phá ở Cumran để lại cho ta nhiều bản chép tay quý giá về Kinh Thánh và các tài liệu của cộng đoàn. Cũng có cả một hệ thống bể chứa nước dùng cho việc thanh tẩy.

Phải nhìn nhận rằng đời sống thánh thiện của nhóm này quả là một đóa hoa đẹp của Dothái giáo. Tuy họ sống tách biệt nhưng đây là một cộng đoàn năng động, họ mong Chúa đến nên sống trong cầu nguyện và tiết dục để chuẩn bị đón Người. Theo các tác giả xưa như sử gia Giôxêphô thì nhóm Étxênô sống độc thân hoàn toàn. Tuy nhiên người ta lại tìm thấy những bộ xương phụ nữ ở nghĩa địa của họ và cả những tài liệu nói đến việc kết hôn một vợ một chồng. Dù sao điều này không phải là không giải thích được: có thể lúc đầu, họ nhận cả các cặp vợ chồng hay cho phép kết hôn, nhưng dần dần họ đi đến chỗ tiết dục tuyệt đối. Nhóm Étxênô tự coi mình mới là con cháu đích thực của thượng tế Sađốc. Ðối với họ, đền thờ đã bị các tư tế làm ô uế nên họ từ chối không đến đền thờ. Họ mong Thiên Chúa đến để thanh tẩy đền thờ và tái lập một nền phụng tự thanh sạch. Về mặt chính trị, họ là những người Dothái yêu nước. Năm 68 họ lao mình vào cuộc chiến chống Rôma để rồi chấp nhận thất bại.

Chắc có một liên hệ nào đó giữa ông Gioan Tẩy Giả với nhóm Étxênô ở Cumran, vì lời giảng của ông có những nét tương tự với xác tín của nhóm này: Ðấng Mêsia đã gần đến, sự cần thiết của việc thanh tẩy, sự kinh khủng của ngày thịnh nộ sắp giáng xuống... Chẳng rõ Ðức Giêsu có biết đến nhóm người ở Cumran không, nhưng phải nhận rằng giáo lý của Ngài khác với giáo lý của họ ở một điểm khá quan trọng, đó là tính phổ quát của ơn cứu độ. Khi cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa thì người Étxênô quay ra căm thù những kẻ tội lỗi, ngoại giáo cũng như Dothái, và mong ngày Thiên Chúa tiêu diệt tất cả những kẻ vô đạo trên mặt đất. Còn Ðức Giêsu lại nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.


*Nhóm Samari


          Dân Samari là một nhóm người có gốc Dothái, nhưng sau cuộc lưu đày năm 722 trước CN, họ trở thành một dân có pha trộn nhiều sắc dân ngoại. Sau nhiều biến cố lịch sử đáng tiếc, dân Samari với dân Dothái nuôi mối thù ghét lẫn nhau. Người Dothái coi người Samari là lạc giáo và từ chối có sự liên hệ với họ (x Ga 4,9). Người Samari không thờ phượng ở Giêrusalem, nhưng ở trên núi Garidim, và họ chỉ nhìn nhận Ngũ Thư mà thôi. Thái độ của Ðức Giêsu đối với nhóm người này thật là khác thường trong bối cảnh thời ấy (Lc 10,33; 17,16; Ga 4,5-40). Samari cũng đã trở nên phần đất được rao giảng Tin Mừng (Cv 8,5-25).


4.Ðền thờ, hội đường và các ngày đại lễ


            *Ðền thờ


             Vào thời Ðức Giêsu, đền thờ đã trải qua một lịch sử dài. Ðền thờ đầu tiên do vua Salômôn xây đã bị quân Babylon phá hủy năm 587 trước CN. Sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày trở về, người ta xây đền thờ thứ hai nhỏ hơn (520-515 trước CN). Ðền thờ vua Hêrôđê Cả, đền thờ được trùng tu và nới rộng: công trình bắt đầu năm 20 trước CN, mãi đến năm 64 sau CN mới hoàn tất, nhưng sáu năm sau đền thờ lại bị phá hủy hoàn toàn. Ðền thờ có nhiều tiền đình. Lớn hơn cả là tiền đình dân ngoại, nơi đây người ta buôn bán súc vật và đổi tiền để dâng cúng đền thờ (x. Ga 2,14). Một lan can bằng đá ngăn tiền đình này với tiền đình phụ nữ, người ngoại giáo vượt qua sẽ bị xử tử (x. Cv 21,28). Rồi đến tiền đình Ítraen dành cho nam giới. Sau cùng là tiền đình tư tế, ở giữa có bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, cao 7,5 mét, mỗi cạnh dài 25 mét. Ðây là nơi dâng các vật hy sinh, đặc biệt là "hy sinh vĩnh viễn" gồm việc dâng một con chiên vào buổi sáng và buổi chiều mỗi ngày. Cuối cùng là phần quan trọng nhất của đền thờ gồm Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh. Nơi Thánh (Hêkal) có bàn thờ dâng hương (x. Lc 1,9.11), bàn dâng bánh trưng hiến và chân đèn bảy ngọn. Ði qua một bức màn là vào Nơi Cực Thánh (Debir). Trước kia, trong đền thờ do vua Salômôn xây, Nơi Cực Thánh là nơi đặt Hòm Bia Giao Ước. Từ năm 587 trước CN, Hòm Bia không còn nữa nên Nơi Cực thánh hoàn toàn để trống. Người Dothái tin rằng đây là nơi Thiên Chúa hiện diện cách đặc biệt, chỉ có thượng tế tại chức mới được vào mỗi năm một lần trong dịp lễ xá tội.

Ðền thờ là trung tâm đời sống phụng tự của dân Dothái, nên việc đền thờ bị phá hủy là một mất mát không gì bù đắp nổi. Từ 20 tuổi, mọi người Dothái phái nam đều phải nộp thuế đền thờ. Ði hành hương lên Giêrusalem vào ba dịp đại lễ là một niềm vui lớn cho những người mộ đạo.


*Hội đường


              Hiện nay người ta cho rằng từ thời lưu đày ở Babylon, vì đền thờ không còn nữa, nên bắt đầu xuất hiện các hội đường. Từ đó các hội đường phát triển nhanh ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Mỗi cộng đoàn Dothái đều có hội đường. Ở các thành phố lớn có nhiều hội đường.

Hội đường là một căn nhà hình chữ nhật, hướng về Giêrusalem. Phụng tự ở hội đường chủ yếu là ngày sabát, gồm có cầu nguyện và đọc Kinh Thánh: người ta đọc Kinh Thánh bằng tiếng Hípri, rồi đọc bản dịch bằng tiếng Aram (Targum), sau đó là bài giảng nhằm giải thích và áp dụng vào cuộc sống (Lc 4,16-21). Ông trưởng hội đường có nhiệm vụ tổ chức phụng vụ, chỉ định người đọc sách thánh và mời những người có khả năng lên giải thích (x Cv 13,15).

Vai trò của hội đường rất quan trọng; đặc biệt sau năm 70, khi không còn đền thờ nữa, nó trở thành nơi sinh hoạt của đạo Dothái. Hội đường không những là nơi phụng tự, mà còn là trường học và là trung tâm văn hóa. Chính nhờ hội đường mà niềm tin của người Dothái được duy trì và lòng đạo đức được nuôi dưỡng.


*Các ngày đại lễ


            Có ba dịp lễ lớn hàng năm kỷ niệm những lần Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử để giải phóng dân Người. Ðó là lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Trong các lễ này, trên nguyên tắc, mọi người Dothái phái nam phải đi hành hương Giêrusalem.

Lễ Vượt Qua là lễ trọng hơn cả, kéo dài trọn một tuần. Chiều ngày 14 tháng Nixan (khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch), người ta sát tế chiên tại đền thờ, rồi tư tế sẽ lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc chiên vượt qua theo gia đình hay theo nhóm. Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ xưa kia được giải phóng khỏi Aicập. Trong bữa tiệc Vượt Qua người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng. Ngoài ra người ta cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành. Trong bầu khí linh thánh của bữa ăn đặc biệt này, vị chủ tọa sẽ kể lại biến cố Xuất Hành. Lúc tiệc gần tàn, người ta đọc các thánh vịnh ca ngợi (Hallel) tức là Tv 113-118.

Khi nhớ lại cuộc giải phóng xưa, người ta hy vọng Chúa sẽ giải phóng dân Người trong tương lai. Chính vì lễ Vượt Qua là một lễ có thể khơi dậy lòng ái quốc và vì số người đổ về Giêrusalem rất đông (khoảng 200,000 người), nên dịp này chính quyền Rôma canh phòng cẩn mật hơn nhiều để tránh bạo loạn.

Lễ Ngũ Tuần được cử hành 50 ngày sau lễ Vượt Qua. Nguyên thủy đây là lễ mùa gặt, người ta dâng cho Chúa những của đầu mùa (Xh 23,16). Sau này lễ Ngũ Tuần (còn được gọi là lễ Các Tuần ở Xh 34,22) trở thành một lễ tưởng niệm việc Chúa ban giao ước và luật trên núi Xinai. Thật là ý nghĩa khi chính trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Dothái mà Thánh Thần đã được ban xuống để kết thúc cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô (Cv 2).

Lễ Lều nguyên thủy là lễ thu hoạch những hoa trái của ruộng đồng (Xh 23,16). Sử gia Giôxêphô cho rằng đây là lễ thánh nhất và trọng nhất của người Dothái. Lễ này cử hành vào mùa thu, khi vụ thu hoạch đã kết thúc (Lv 23,39), trái cây đã được hái xong. Khách hành hương dựng lên những cái lều, họ ở đó trong bảy ngày để nhớ lại thời gian sống trong sa mạc (Lv 23,42-43). Ngoài ra có nhiều cuộc rước tưng bừng, người ta phất cành lá vạn tuế (lulab) để tung hô. Mỗi ngày các tư tế đi rước nước ở hồ Silôa đem về rưới lên bàn thờ. Buổi tối, tiền đình phụ nữ rực rỡ ánh đèn, có ca múa suốt đêm. Tin Mừng Gioan đã minh nhiên nói đến lễ này ở 7,2 và có lẽ đã ám chỉ đến lễ ấy ở 7,37-38 và 8,12.

Ngoài ba đại lễ trên còn những lễ khác như lễ Xá Tội, lễ Cung Hiến đền thờ (x. Ga 10,22) và lễ Tân Niên. Ngày sabát là ngày cầu nguyện và nghỉ ngơi, ngưng mọi công việc sau sáu ngày lao động. Ngày sabát bắt đầu từ chiều thứ sáu đến chiều thứ bảy, đó là ngày thánh hiến cho Thiên Chúa. Ðức Giêsu không coi thường ngày sabát, Người chỉ phản đối một lối hiểu hẹp hòi về ngày lễ này, bởi lẽ ngày sabát cũng là ngày sống cho tha nhân (Mt 12,12).


VI. CÁC SÁCH TÂN ƯỚC


 1. Phúc âm có nghĩa là gì?

Theo nguyên ngữ thì PHÚC ÂM có nghĩa là "TIN VUI" hay "TIN MỪNG" (GOOD NEWS). Tin mừng là tiếng các tác giả Tân ước, nhất là thánh Phaolô, thường dùng để chỉ những lời rao giảng của Đức Kitô theo nghĩa là tin vui, tin mừng về ơn giải thoát được loan báo, khi Ngôi Hai giáng thế để mở ra một kỷ nguyên mới cho con người. Từ giữa thế kỷ thứ hai, bốn sách đầu của Tân ước được gọi là Tin Mừng hay Phúc âm theo nghĩa từ chữ Evangelion.


2. Đâu là những điểm khác biệt giữa Phúc âm và thánh thư?

Phúc âm trình bầy Tin mừng về những gì Đức Kitô đã giảng dậy và làm cho nhân loại; Còn Thánh Thư là những lá thơ do các thánh tông đồ viết để trình bầy những áp dụng của Tin Mừng vào từng Hội Thánh, để thích ứng với hoàn cảnh cũng như những nhu cầu của từng địa phương, dân tộc.


3. Các sách Tân ước được hình thành thế nào trong Hội Thánh?

Tân ước được viết để lưu truyền những lời giảng dậy của Chúa, các sách ấy được hình thành dần dần trong và cùng với Hội Thánh.

Cũng như tất cả những nhà giảng thuyết thời đó, ÐGS đi đây đi đó để hoạt động và rao giảng. Dân chúng và các môn đệ xem, nghe và nhớ nhưng không ai ghi chép lại. Sau khi  ÐGS sống lại và lên trời, các tông đồ đi rao giảng khắp nơi và thành lập những giáo đoàn. Ðể phục vụ cho những sinh hoạt trong các giáo đoàn này, các tông đồ không tùy tiện muốn nói gì làm gì tự ý, nhưng nhớ lại xem ngày xưa trong hoàn cảnh như thế ÐGS đã nói gì và làm gì rồi truyền lại cho tín hữu. Các tông đồ cứ chết dần chết mòn khiến người ta càng thấy cần ghi lại những ngôn hành của ÐGS mà các Ngài giảng dạy cho tín hữu để lưu truyền cho các thế hệ về sau.

Việc ghi chép trải qua nhiều giai đoạn :

        - Trước hết là ghi chép thành những mẫu văn rời. Thí dụ một bài giảng của ÐGS, một phép lạ của Ngài v.v.

        - Tiếp đến là tập hợp những mẫu văn rời ấy lại thành tập, dựa trên 1 số tiêu chuẩn. Thí dụ những bài giảng thành 1 tập, những phép lạ thành 1 tập, những dụ ngôn thành 1 tập v.v.

        - Trong khoảng thời gian các giáo đoàn ghi chép, sưu tập và lưu chuyển cho nhau những ngôn hành của ÐGS, họ cũng sửa đổi và thích nghi các bản văn để đáp ứng với những vấn đề cụ thể của giáo đoàn họ. Việc này không làm sai lạc ý tưởng của ÐGS, bởi vì chính ÐGS đang sống trong giáo đoàn (ÐGS phục sinh) và Ðức Thánh Linh soi sáng cho họ làm việc đó.

Cuối cùng có những người gom góp tất cả những mẫu văn rời và những sưu tập để soạn thành 4 quyển Tin Mừng, đó là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan. Dĩ nhiên những soạn giả này cũng có phần đóng góp riêng của họ: mỗi vị có 1 hướng trình bày các ngôn hành của ÐGS theo quan điểm riêng của mình, cho nên cũng có 1 cách chọn lựa tư liệu riêng, 1 cách sắp xếp bố cục riêng, xử dụng những từ ngữ và bút pháp riêng v.v. Dĩ nhiên ở đây các vị cũng được sự hướng dẫn đặc biệt của ÐGS phục sinh và Thánh Linh.

   Ngoài 4 quyển Tin Mừng ấy, còn có những tác phẩm ghi lại sinh hoạt của Giáo Hội (Sách Công vụ tông đồ), giáo huấn của những vị lãnh đạo các giáo đoàn (các Thư và sách Khải huyền). Những tác phẩm kể trên được gọi chung là Tân Ước.

        Về niên biểu, những giai đoạn trên được phỏng định như sau :

        - Khoảng năm 28-30 : Ðức Giêsu lịch sử đang nói và hoạt động.

        - Khoảng năm 30-70 : Thành lập các giáo đoàn.

        - Từ năm 50 : Bắt đầu có các Thư.

        - Từ năm 70-80 : soạn 3 quyển Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca. 3 quyển này theo 1 sơ đồ tương đối giống nhau về thứ tự các diễn biến trong đời ÐGS, nên được gọi là các Tin Mừng nhất lãm (nhất lãm : 1 cái nhìn chung). Trong khi đó phúc âm của thánh Gioan mang những sắc thái cá biệt, mặc dầu vẫn còn có liên hệ với ba cuốn kia. Các nhà thánh kinh gọi nguồn chung ấy là "Q", từ tiếng Đức QUELLE, có nghĩa là nguồn. Về thứ tự sắp xếp, thì các tích truyện trong các Tin Mừng nhất lãm gom thành bốn phần lớn:

A. Chuẩn bị cho sứ vụ Chúa Giêsu.

B. Sứ vụ ở xứ Galilê.

C. Lên thành Giêrusalem.

D. Sứ vụ tại Giêrusalem. Tử Nạn và Phục Sinh.

Bên trong bốn phần lớn này, Thánh Mátthêu phân phối các tích truyện theo một thứ tự riêng cho tới chương 14, rồi từ đó trình bày các tích truyện chung với Thánh Máccô và theo cùng một thứ tự như ngài. Thánh Luca, thì xem các tích truyện riêng vào một toàn thể y hệt như của Thánh Máccô (như Lc 6,20-8,3 hay 9,51-18,14). Tuy nhiên phải ghi nhận rằng: bên trong sự hòa hợp toàn thể này có sự khác biệt nhau, đôi khi trong chính những đoạn chung nhau (v.d. như ở Lc việc kêu gọi các môn đồ hay cuộc viếng thăm Nadarét).

        - Khoảng năm 95 : Thánh Gioan soạn Tin Mừng thứ tư và sách Khải huyền.


4.Tân ước gồm những sách nào?

Tân ước gồm tất cả 27 cuốn thứ tự như sau:

- 4 cuốn phúc âm (Mathêu, Marcô, Luca và Gioan).

- 1 cuốn tông đồ công vụ.

- 14 thơ của thánh Phaolô.

- 7 thư chung của các thánh:Phêrô, Giacôbê, Gioan, và Giuđê.

- Cuối cùng là sách Khải huyền.


5. Cho biết thứ tự trước sau của việc soạn thảo các sách phúc âm?

Truyền thống tin rằng phúc âm thánh Marcô được soạn đầu tiên, rồi tới Mathêu hoặc Luca, cuối cùng mới tới Gioan. Tuy thế thánh Augustinô cho rằng "Phúc âm thánh Marcô là bản tóm lược và được viết sau phúc âm thánh Mathêu". Một số trường phái hiện đại cũng đang đặt lại vấn đề trước sau của phúc âm thánh Marcô.


 6. Phúc âm được viết bằng ngôn ngữ nào?

Cả bốn phúc âm được viết bằng tiếng Hy Lạp, nhưng cũng có giả thuyết cho có phúc âm được viết bằng tiếng Aram (Do Thái) nhưng đã bị thất lạc.


7. Những biểu tượng của mỗi thánh sử là gì?

Mỗi thánh sử đều có biểu tượng riêng là bốn sinh vật mà sách khải huyền chương 4 câu 7 thánh Gioan nói tới. Trong thị kiến, các sinh vật ấy tượng trưng cho toàn thể vũ trụ (đọc thêm Ezekiel 10:14):

- Sinh vật thứ nhất giống như sư tử (biểu hiệu cho Marcô),

- Sinh vật thứ hai giống như bò tơ (biểu hiệu của Luca),

- Sinh vật thứ ba giống như mặt người (biểu hiệu của Mathêu),

- Sinh vật thứ tư giống loại phượng hoàng (biểu hiệu của Gioan).

Sách Êdêkien cũng mở đầu bằng một cảnh tượng lạ mà vị tiên tri được thấy: vinh quang Thiên Chúa ngự đến trên một chiếc xe do 4 sinh vật kéo. Mỗi sinh vật đều có 4 mặt: mặt người , mặt sư tử, mặt bò và mặt phượng hoàng (Ed 1, 10).

Người ta cũng lấy 4 khuôn mặt ấy làm biểu tượng cho 4 tác giả sách Tin Mừng, dựa trên đoạn mở đầu của mỗi sách:

-           Mt : mở đầu bằng gia phả Chúa Cứu Thế, kể toàn tên người (mặt người).

-           Mc : mở đầu bằng tiếng kêu trong hoang địa, giữa sa mạc và núi rừng (mặt sư tử).

-           Lc : mở đầu bằng việc dâng bò cừu làm của lễ trong đền thờ (mặt bò).

-           Ga : mở đầu bằng những suy niệm cao vời bay bổng (mặt phượng hoàng).

Một cách giải thích khác về các biểu tượng trên:

- Biểu tượng mặt người của Matthêu: Vì ngài đã phác họa chân dung của Đức Kitô như một con người, một nhân tính toàn vẹn nhưng đồng thời nhân tính ấy cũng là một Thiên Chúa viên toàn.

- Biểu tượng mặt sư tử của Mc: Vì phúc âm ngài viết về "một con người dũng mạnh của Thiên Chúa".

- Biểu tượng mặt bò của Lc: Vì ngài trình bày cuộc đời của Chúa Giêsu như của lễ toàn thiêu hoàn hảo vẹn toàn theo như luật phụng tự thay cho toàn thể nhân loại.

- Biểu tượng mặt phượng hoàng của Ga: Vì những suy tư và lối viết bay bổng của ngài vượt trên các thánh sử khác.


8. Thánh Mathêu

- Thánh Mathêu là ai? Mathêu là một trong nhóm 12 tông đồ (Mathêu 10:24; Marcô 3:16-19; Luca 6:14-16; CV 1:13). Ngài là nhân viên thu thuế (Mt 10:3), được Chúa Giêsu gọi lúc ngồi ở bàn thu thuế (Mt 9:9). Theo Papias (Giám mục thành Hierôplis khoảng năm 138) thì Mathêu cũng được gọi là Lêvi, đã soạn phúc âm bằng tiếng Aram, nhưng bản đó đã bị thất lạc. Hiện nay người ta chỉ tìm được những bản bằng tiếng Hy Lạp.

- Thánh Mathêu nhắm mục đích gì và nhắm vào thành phần thính giả nào khi viết phúc âm? Thánh Mathêu trích dẫn Cựu ước rất nhiều trong phúc âm của Ngài, nhằm mục đích chứng minh Chúa Giêsu Nazarét chính là Đấng Messia Thiên Chúa đã hứa; và như thế ngài nhắm vào số thính giả người Do Thái.

- Thánh Mathêu viết phúc âm tại đâu? Theo truyền tụng thì thánh Mathêu đã rao giảng và làm việc tại Antioch (CV 11:26), có lẽ tại đây Ngài đã soạn phúc âm.

- Lễ thánh Mathêu được giáo hội mừng kính vào ngày nào? Ngày 21 tháng 9 dưới tước hiệu tông đồ thánh sử.

- Đức thánh cha Pio XII đã tặng thêm danh hiệu nào cho thánh nhân? Năm 1956 Đức Thánh Cha Pio XII đã đặt ngài làm quan thày cho những người thủ thư viện.


9. Thánh Marcô

- Thánh Marcô là ai? Theo thư Côlôssê chương 4 câu 10 thì Marcô là anh em họ với thánh Barnaba. Mẹ ngài là Maria có một ngôi nhà tại Giêrusalem, nơi quy tụ các Kitô hữu tiên khởi (CV 12:12). Ngài đã theo thánh Phaolô và Barnaba trong một số hành trình truyền giáo (CV 12:25); nhưng Marcô đã trở về khi các ngài tiến vào Tiểu Á (CV 13:5, 13). Chính vì thế mà thánh Phaolô đã khước từ không cho ngài tháp tùng lại nữa. Sau này thánh Barnaba đã đem ngài đi Cyrus (CV 15: 37-39). Trong thư thứ hai Timôthêô chương 4 câu 11 thánh Phaolô đã làm hòa lại cùng Marcô. Tác giả của thư thứ nhất Phêrô chương 5 câu 13 thích gọi ngài là "người con của tôi".

- Còn chính ngài giới thiệu về mình như thế nào trong phúc âm? Theo tin mừng của ngài chương 14 câu 51-52 thì ngài chính là chàng thanh niên "tẩu thoát mình trần". Ngài cũng còn được cho là "người đội vò nước" (Mc 14:13) mà Chúa đề cập tới lúc sai hai môn đệ đi dọn bữa lễ vượt qua.

- Phúc âm của thánh Marcô đã được thánh Mathêu và Luca trích dẫn như thế nào? Hầu như phúc âm của ngài được trích dẫn tới 95 lần. Toàn bộ phúc âm của ngài có 661 câu thì đã có tới 600 câu được tiềm tàng trong phúc âm của thánh Mathêu và 350 câu trong phúc âm của thánh Luca. Chỉ có 31 câu là không được trích dẫn trong cả hai phúc âm.

- Thánh Marcô đã dựa vào nguồn nào mà soạn phúc âm? Theo tài liệu rất cổ của Papias (khoảng năm 138) và của thánh Irênê (khoảng năm 202) thì thánh Marcô là thông ngôn của thánh Phêrô, nên ngài viết phúc âm dựa trên lời rao giảng và ký ức của thánh Phêrô.

- Thánh Marcô viết phúc âm nhắm tới các độc giả nào? Ngài viết cho dân ngoại, đặc biệt những người ở Lamã. Chính vì vậy mà Marcô đã loại bỏ những gì quá riêng tư cho người Do Thái và ngài ít trích dẫn Cựu ước.

- Marcô viết phúc âm ở đâu? Có lẽ ngài viết tại Lamã, vì có những kiểu nói của tiếng Latin trong phúc âm của ngài như "centurio" (viên bách quản) (Mc 15:39, 44) chẳng hạn.

- Thánh Marcô viết phúc âm nhằm mục đích gì? Để minh chứng Đức Giêsu là con Thiên Chúa toàn năng (Rom 1:4).

- Lễ thánh Marcô được mừng kính ngày nào trong năm phụng vụ? Thánh Marcô được mừng kính vào ngày 25/4 dưới tước hiệu Marcô tông đồ thánh sử.


10. Thánh Luca

- Thánh Luca là ai? Luca bắt nguồn từ danh từ Latin "Lucanus", nói lên nguồn gốc của ngài là dân ngoại (Col 4:11 tiếp theo). Theo lá thư Phaolô gửi cho Timôthêô (II Tim 4:11) "chỉ mình Luca ở với cha" có nghĩa là Luca là bạn đồng hành truyền giáo của thánh Phaolô. Trong thơ Philmôn câu 24 thánh Phaolô liệt kê thánh Luca vào số "những cộng sự viên của ngài", còn trong Côlôssê 4:14 ngài được gọi là "lương y".

- Luca đã đóng vai trò nào trong Tân ước? Ngài không chỉ là tác giả của phúc âm thứ ba mà còn là tác giả sách Tông đồ công vụ nữa.

- Thánh Luca viết sách phúc âm nhằm mục đích gì? Ngài viết phúc âm để minh chứng rằng đạo Chúa Kitô là một đạo giáo toàn cầu qua cách quảng diễn lòng nhân từ của Chúa đối với những người nghèo khổ và bị áp bức, nêu cao lòng thiện cảm của Chúa dành cho dân ngoại. Phúc âm của ngài đã diễn đạt chân lý mà thánh Phaolô công bố trong thư Galata chương 3 câu 28 như sau: "không còn là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì tất cả anh em là một trong Đức Kitô Giêsu".

- Thánh Luca viết phúc âm nhằm cho loại độc giả nào? Là một người dân ngoại, nên ngài viết cho các tín đồ dân ngoại.

- Thêôphilô là ai mà thánh Luca đề tặng ở đầu sách phúc âm của ngài? Thêôphilô là một danh từ Hy Lạp, có nghĩa là "kẻ yêu mến Thiên Chúa". Có thể ông là kẻ mới chịu đạo và đại diện cho nhóm độc giả mà Luca nhắm tới, hầu họ am tường về giáo huấn của đạo mới.

- Tại sao lại gọi phúc âm của ngài là phúc âm đặc biệt dành cho dân ngoại? Vì Chúa Giêsu mà Luca trình bầy trước tiên không phải là Đấng Messia của người Do Thái mà là Đấng Kitô của toàn cầu. Chính vì thế mà ngài trình bầy gia phả của Chúa ngược lên tới Adam chứ không chỉ dừng lại ở Abraham. Rồi trong bài ca của ông già Simêon Chúa được xưng tụng là "ánh sáng soi chiếu muôn dân". Luca còn đề cập tới nhiều khuôn mặt người ngoại như người Samaritanô nhân hậu, Chúa nêu cao gương đức tin của viên bách quản. Cuối cùng phúc âm Luca được kết thúc với lệnh truyền: "Tin mừng phải được rao giảng cho muôn dân".

- Tại sao gọi phúc âm Luca là phúc âm đặc biệt dành cho nữ giới? Vì thánh Luca đã diễn đạt một cách phong phú nét dịu hiền thương mến của Chúa dành cho phái nữ. Ngoài những lời tán dương trong những bài hoan ca của bà Elizabeth, của Mẹ Maria và của bà Anna, chúng ta còn tìm thấy tình thương hải hà Chúa dành cho người phụ nữ ngoại tình, lòng trắc ẩn với bà góa thành Naim, thân tình với chị em Maria và Martha và những lời an ủi dành cho những người phụ nữ thành Giêrusalem đang khóc thương Chúa trên đường thập giá.

- Lễ của ngài được mừng kính vào ngày nào trong năm phụng vụ? Ngày 18 tháng 10 với danh tước là Luca thánh sử.


11. Thánh Gioan

- Thánh Gioan là ai? Gioan em của thánh Giacôbê tiền, con của ông Giêbêđê, một trong những người đầu tiên được Chúa gọi làm tông đồ (Mc 1:19). Ngài là "tông đồ được Chúa yêu" (Gio 19:26) và là "người đã tựa đầu vào ngực Chúa" trong bữa tiệc ly như chính ngài đã ghi lại trong phúc âm của ngài.

- Thánh Gioan viết phúc âm cho ai và viết tại đâu? Thánh Gioan viết phúc âm không chỉ cho người Do thái mà cho hết mọi người mọi nơi. Theo truyền thống thì ngài qua đời tại Ephêsô, nên có lẽ ngài cũng biên soạn phúc âm của ngài tại đó.

- Lễ của ngài được mừng kính vào ngày nào? Ngày 27/12 dưới tước hiệu: Gioan tông đồ thánh sử.


12. Sách Tông đồ công vụ

- Sách Tông đồ công vụ có nghĩa là gì? Tông đồ công vụ là một cuốn sách lược tóm việc rao giảng, các cuộc hành trình và bách hại của các Kitô hữu trong buổi đầu sơ khai của Hội thánh. Là một câu chuyện dài tóm lược những nỗ lực của các tông đồ và môn đệ Đức Giêsu Kitô đã rao giảng từ Giêrusalem tới Roma, từ thành thánh tới một kinh đô huy hoàng nhất vào thời đại ấy.

- Ai là tác giả của sách Tông đồ công vụ? Theo như câu nhập đề của cuốn sách thì thánh Luca là người đã ghi chép lại. Ngài đã đề tặng Theophulus tác phẩm này (CV 1:1) cũng như đã đề tặng trong cuốn phúc âm (Lc 1:13).

- Sách được viết lúc nào? Việc xác định sách được viết vào năm nào vẫn là một vấn đề còn được tranh luận. Một số tác giả dựa vào chương kết của Tông đồ công vụ chương 28:30-31 mà đưa ra giả thuyết là sách phải được viết sau năm 62 là năm thánh Phaolô được trắng án, nhưng không thể muộn hơn năm 80, là những năm mà thư của thánh Phaolô chưa được phổ biến. Một số tác giả khác dự đoán rằng sách phải được viết vào khoảng năm 64 sau khi Luca đã biên soạn phúc âm, vì ngài đã đề cập tới cảnh sụp đổ của thành thánh Giêrusalem (Lc 21:20) trong phúc âm của ngài. Một số khác cho rằng sách phải được viết khoảng năm 80 đến 90.

- Sách Tông đồ công vụ được biên soạn tại đâu? Theo những biến cố Luca ghi lại nhiều nơi trong sách Tông đồ công vụ như "…chính Thiên Chúa đã gọi chúng tôi đến rao giảng…" (Cv 16:10-18; 20:5-16; 21:1-16; 27:1-28) thánh nhân đã kể nhiều tới các cuộc hành trình truyền giáo, xử dụng nhiều truyền thống từ các cộng đoàn philiphê, Eâphêsô, Côrintô và cêsarê…Nên có thể ngài viết tại Antioch, Rôma hay Eâphêsô.

- Luca đã dựa trên những nguồn tài liệu nào để viết Tông đồ công vụ? Để xác định các nguồn tài liệu nào Luca đã dùng để viết thì thật là khó. Nhìn vào sách ta thấy Tông đồ công vụ được chia ra làm hai phần:

* Phần thứ nhất gồm 12 chương đề cập tới Hội thánh Giêrusalem trong buổi đầu sơ khai mà có lẽ ngài được biết qua thánh Marcô hay thánh phêrô mà thôi.

* Phần hai từ chương 13-28 đề cập tới những hoạt động của thánh Phaolô mà chính ngài là nhân chứng và hiện diện trong những sinh hoạt, hành trình đó vì ngài là phụ tá của thánh Phaolô.


13. Thánh Phaolô

- Thánh Phaolô là ai? Rất khó có thể tóm lược tiểu sử của ngài vào vài dòng vì đời của ngài có quá nhiều nét phong phú và phi thường. Nhưng ta có thể nói ngài là một nhà truyền giáo tiên khởi vĩ đại, làm việc không biết mỏi mệt, là người đem Tin mừng đầu tiên cho dân ngoại và là tác giả của nhiều thư trong Tân ước.

- Sinh quán của thánh Phaolô ở đâu? Theo sách Tông đồ công vụ chương 21 câu 39 thì Phaolô tự hào là "một người Do Thái quê tại Tarsô, Cilicia, công dân của một thành phố không phải là không tên tuổi". Điều ấy nói lên hai quyền công dân của ngài.

- Phaolô đã được thụ huấn như thế nào? Cha mẹ ngài có lẽ đặt rất nhiều hy vọng và mộng ước con mình sẽ thành một nhà luật pháp thông thái, nên khi vừa 14 tuổi ngài đã được gửi lên Giêrusalem theo học trường luật của Gamalie (CV 22:3).

- Xét về mặt xã hội Do thái, Phaolô thuộc tầng lớp nào? Ngài là một biệt phái, con của biệt phái (CV 23:6), "sống theo lề luật như biệt phái" (Phi 3:5).

- Chúng ta có thể nói gì về dung mạo của Phaolô? Dung mạo của thánh Phaolô có thể tóm gọn như sau:

* Về thể lý: chúng ta không biết được điều gì chính xác cả. Một số ước đoán ngài là một con người mảnh khảnh ốm yếu, nhưng ngược lại một số khác cho ngài là một con người cường dũng mạnh.

* Về tinh thần: qua các câu chuyện trong Tông đồ công vụ và thư của ngài, chúng ta dễ dàng nhận định rằng ngài là một người đầy nhiệt tình hăng hái, quả cảm, kiên gan và trì chí nhưng lại dễ động lòng trắc ẩn, thân tình chí thiết. Biến cố Đamas đã thay đổi toàn vẹn con người ngài để nên một kỳ công tuyệt diệu của chương trình Thiên Chúa. Với nét nghiêm khắc của một người cha kèm theo nét dịu hiền của một người mẹ, cộng với tài năng minh trí ngài đã vươn lên chóp đỉnh cao siêu thiên giới, nhưng lại tươm tất lưu tâm tới những chi tiết dù nhỏ bé của việc tổ chức Hội thánh nơi trần thế.

- Hãy trình bầy ngắn gọn đặc tính các thư của thánh Phaolô? Chúng ta tập trung vào ba điểm: hình thức, văn chương và đạo lý:

a. Hình thức: Các thư được viết tùy hoàn cảnh và dưới nhiều hình thức từ một thư riêng tới một thiên luận nhằm:

* Rao giảng và làm chứng cho Tin mừng.

* Truyền đạt niềm tin đạo lý.

* San sẻ những suy tư, cảm nghiệm về những mầu nhiệm và mặc khải.

b. Văn chương: là một người học sâu hiểu rộng và tuy bị ảnh hưởng của văn chương bóng bẩy Hy lạp, nhưng Phaolô lại không diễn tả tư tưởng theo lối văn chương chải chuốt ngược lại lời văn hùng mạnh, tư tưởng hàm súc nhằm thuyết phục mọi thính giả.

c. Đạo lý: Phaolô chiếm một địa vị vô song trong Giáo hội mọi thời. Hiện nay các nhà thần học vẫn chưa đào sâu hết các giáo thuyết của ngài. Tựu chung ta có thể tóm tắt vào những điểm sau:

* Biến cố Chúa hiện ra với ngài trên đường Đamas đã thay đổi đời sống của ngài bao nhiêu thì cũng đánh dấu đời sống tôn giáo và đạo lý của ngài bấy nhiêu. Chúng ta được nên công chính nhờ tin vào Chúa Giêsu Kitô chết và phục sinh.

* Dân của giao ước mới không còn phải là dân được xây dựng trên lề luật mà trên Thần khí. Phaolô trình bầy mầu nhiệm của Hội thánh như thân hình mầu nhiệm của Chúa Kitô, được xây dựng trên lời rao giảng, trong đó mọi người đều bình đẳng trong tự do là con cái Thiên Chúa.

* Công cuộc cứu chuộc được liên kết với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi:

+ Sáng kiến do tự lòng yêu thương của Thiên Chúa Cha,

+ Được thể hiện trong sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu.

+ Và được kiện cường nhờ quyền năng sức mạnh của Chúa Thánh thần.

- Lễ thánh Phaolô được mừng kính ngày nào trong phụng vụ? Ngài được kính nhớ vào hai ngày: 25/1 kỷ niệm biến cố trở lại và 29/6 mừng chung hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, hai vị thánh vĩ đại và lừng danh trong Giáo Hội.


14. Thư chung gồm những thư nào và tại sao gọi là thư chung?

Thư chung gồm bẩy thư: một của tháng Giacôbê, một của thánh Giuđê, hai thư do thánh Phêrô viết và ba thư do thánh Gioan viết. Gọi là thư chung vì các thư ấy không đề gửi cho ai hoặc cho một giáo đoàn nào. (Điều ấy tất không thể áp dụng cho lá thư thứ hai và thứ ba của thánh Gioan.. Nhưng vì các thư này được coi như phụ trương cho lá thư thứ nhất, nên cũng được).

 - Giacôbê là ai và ai là tác giả của thư Giacôbê? Trong phần nhập đề bức thư tác giả đã tự giới thiệu: "Giacôbê, nô lệ của Thiên Chúa và Chúa Giêsu Kitô" (1:1). Nhưng ai là Giacôbê thì không có chi tiết nào rõ rệt cả. Trong các bản văn Tin mừng thì có tới ba người mang tên Giacôbê con của Zêbêđê (Mt 4:21) và là anh em của thánh Gioan Tông đô thánh sử (Mt 17:1), ngài được gọi là "Giacôbê tiền" để phân biệt với một tông đồ khác cùng tên. Giacôbê thứ hai là một tông đồ, con của Alphêus (Mt 10:3) là anh em bà con với Chúa Giêsu (Mc 6:3; Galát 1:19). Và Giacôbê thứ ba là nguời được Chúa hiện ra sau khi sống lại ( I Cor 15:7), người đuợc thánh phêrô báo tin lúc ngài thoát khỏi ngục (CV 12:17), là người thánh Phaolô đã gặp tại Giêrusalem sau cuộc ngã ngựa (Gal 1:18-19). Ngài được coi là rường cột của Giáo hội Giêrusalem làm một với thánh Phêrô và Gioan (Gal 2:9). Cũng chính ngài đã công bố quyết định của công đồng đầu tiên họp tại Giêrusalem (CV 15:13-29). Từ những điểm trên, nhiều tác giả cho rằng Giacôbê, người anh em của Chúa cũng là Giacôbê cầm đầu Giáo hội tại Giêrusalem và là người đã viết lá thư này.

Bí tích nào có nguồn gốc từ bức thư này? Bí tích xức dầu có nền tảng Thánh Kinh trong lá thư của thánh Giacôbê chương 5 từ câu 13 tới 16 như sau: "Ai trong anh em đau khổ, yếu đau liệt lào, hãy mời các vị Niên trưởng của Hội thánh đến; họ sẽ cầu nguyện đặt tay trên người ấy, sau khi sức dầu nhân danh Chúa".

- Thư thứ nhất của thánh Phêrô: Ai là tác giả của lá thư? Tác giả đã tự giới thiệu mình trong phần đầu bức thư như sau: "Phêrô, tông đồ của Chúa Giêsu Kitô" (1:1, và chương 5 câu 12 ngài còn thêm: "Nhờ tay Silvanô, người anh em trung tín, tôi viết ít điều cho anh em". Silvanô đã đóng vai trò nào trong việc viết lá thư thứ nhất này? Theo phong tục thời đó thì Silvanô có thể đóng nhiều vai trò như người sửa chữa bản thảo cho Phêrô, hoặc ghi chép những gì phêrô đọc cho ngài viết… Cũng có thể ngài cắt nghĩa và quảng diễn tư tưởng mà phêrô đã đề ra, hoặc thay thế đại diện Phêrô để ứng dụng các tư tưởng của Phêrô vào những hoàn cảnh cụ thể.

Thư thứ hai chủa thánh Phêrô: Ai là tác giả lá thư này? Thánh Phêrô như phần nhập đề thư viết "Simon Phêrô, nô lệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô" (1:1); và chương 3 câu 1 ngài còn viết thêm: "Đây là lá thứ thứ hai tôi viết cho anh em". Nhưng dựa vào những lời trong 3:2,6 thì tác giả đã biết sưu tập các thư của thánh Phaolô và đặt các thư ấy ngang hàng với các sách Cựu ước (3:15), lại sử dụng thư của thánh Giuđê nữa, nên tác giả phải là một đồ đệ của Phêrô và viết vào thập niên sau thời các tông đồ.

- Các thư của thánh Gioan: tác giả các lá thư và người viết phúc âm thứ tư là một, tức là thánh Gioan tông đồ.

- Ai là tác giả của thư Giuđê? Tác giả tự giới thiệu ở đầu thư: "Giuđê, nô lệ của Đức Giêsu Kitô, anh em với Giacôbê (câu 1). Theo truyền thống thì Giuđê được đồng hóa với một người bà con của Chúa Giêsu trong phúc âm thánh Marcô ở chương 6 câu 3. Tuy nhiên chúng ta không được chắc chắn cho lắm vì Giuđê cũng là một tên rất thông dụng trong Tân ước, ví dụ trong Luca 6:16, tông đồ công vụ 1:13; 15:22-23.


15. Sách khải huyền

- Ai là tác giả của sách khải huyền? Tác giả tự giới thiệu mình là Gioan (Kh 1:4,9). Truyền thống xưa nay vẫn coi sách Khải huyền như một trước tác của thánh Gioan cùng với phúc âm và ba lá thư của ngài nữa.

- Sách Khải huyền được viết lúc nào và viết tại đâu? Sách được viết vào thời bách hại khoảng năm 96 sau Chúa Giáng sinh. Về nơi chốn thì tác giả có đề cập tới như sau: "Tôi là Gioan.. số là tôi đang ở đảo Patmô, vì lời Chúa cùng vì chứng của Đức Kitô" (Kh 1:9). Patmô là một hòn đảo thuộc vùng Mediterranea, là đảo để đầy ải các tù binh chính trị của vương quốc La mã.

- Sách đuợc viết cho ai? Tác giả viết: "Tôi là Gioan, một người anh em và người bạn cùng chia sẻ đau khổ, cùng vương tộc và cùng kiên tâm bền chí với anh em trong Đúc Giêsu" (Kh 1:9). Theo đó, thì ngài viết cho các tín hữu đang trong lao tù như ngài. Có bẩy cộng đoàn được nêu tên, nhưng có lẽ còn đông hơn nữa trong tâm trí và tâm hồn của ngài.

- Tác giả viết nhằm mục đích gì? Trước những cảnh cùng quẫn của các giáo đoàn Tiểu á, thánh Gioan như một vị tiên tri, viết sách Khải huyền nhằm hai mục đích:

* Để khích lệ các tín hữu hãy trung kiên trung thành và để an ủi họ vững tin vào sự toàn thắng của cứu chúa và phân thưởng Ngài dành cho những kẻ chiến thắng: "Vương quyền trên cả thế gian đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Kitô của Người và Ngài sẽ làm vua đời đời kiếp kiếp" (Kh 11:15).

* Xác quyết Thiên Chúa sẽ can thiệp và luận phạt những kẻ làm hại Hội thánh (Kh 14:6-19).

- Tác giả đã dùng loại văn nào trong khải huyền? Loại văn mà thánh Gioan dùng trong Khải huyền là loại văn thị kiến, dùng biểu tượng để diễn đạt ý tưởng, đặc biệt ám chỉ tới hoàn cảnh lịch sử hiện tại của thời đại tác giả đang trải qua.


VII. ĐỌC SÁCH THÁNH THẾ NÀO?

Kinh thánh là Lời của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa luôn có tính hiện tại, nghĩa là Thiên Chúa đang nói với mỗi người chúng ta trong môi trường sống cụ thể của chúng ta, nên chúng ta phải: Đọc để gặp gỡ Lời Chúa. Đọc với tinh thần đức tin. Đọc để cầu nguyện. Đây là cách đọc Kinh Thánh rất bài bản với Phương thức cầu nguyện với Kinh Thánh, đặc biệt với phương pháp cầu nguyện của Lectio Divina.


1. Đọc

Sách Thánh là một cuốn sách mà tôi có thể đọc ban đầu như đọc các sách khác. Có một bản văn để tìm tòi, tìm hiểu để đi sâu hơn mãi trong đó. Khởi sự, cần có có một thái độ tiếp nhận, một cách nghe thiện cảm đối với bản văn và sứ điệp nó trao gửi cho ta.


2. Đọc Sách Thánh

Tôi không đọc Sách Thánh như đọc báo (để lấy tin tức) hoặc như đọc một tập san chuyên môn (để thu thập kiến thức mới). Khi đọc Sách Thánh, tôi tiếp xúc với một kinh nghiệm sống sâu xa, tôi ở trước một bản văn nói lên một điều gì về ý nghĩa của đời sống, nó chất vấn độc giả và mời gọi họ sống tốt hơn.

Kinh nghiệm sống mà Sách Thánh kể lại, trước hết là của một Dân, một dân tộc nhỏ bé miền Trung Đông đang đọc lại lịch sử của họ dưới ánh sáng niềm tin Thiên Chúa. Sách Thánh không phải là một thiên phóng sự trực tiếp về các biến cố. Sách Thánh nói với ta điều người ta đã khám phá được đàng sau các biến cố lịch sử, dưới ánh sáng niềm tin.

Như vậy Sách Thánh là một cách giải nghĩa , cách hiện tại hóa một biến cố đã sống.Và mỗi lần đọc hoặc đọc lại các biến cố đó trong Sách Thánh thì cũng giả thiết là giải nghĩa và hiện tại hóa. Vì thế, đôi khi nên dựa vào một vài quy tắc giúp ta giải nghĩa cho đúng các bản văn . Đây là một số quy tắc đó :


a. Tìm hiểu nghĩa chữ

Chữ của Sách Thánh nói với tôi điều đã xãy ra, các sự kiện lịch sử… Việc mặc khải được tiến hành từ từ và Chúa không nói hoặc không làm hết trong một lúc. Nên lưu ý đến tính tiệm tiến đó. Để đọc một bản văn cho đúng, cần phải phân biệt các thể văn, hiểu bản văn trong bối cảnh lịch sử nào đó (xem điểm 5 ở phía dưới).


b. Khám phá ra nghĩa thiêng liêng

Là nghĩa bên trong của bản văn: Sách thánh không chỉ là một tập sách, mà còn là Lời của Chúa được viết ra. Đọc Sách Thánh là đón nhận Lời Thiên Chúa đã nói ra theo dòng thời gian, một LỜI đầy sinh lực dẫn ta tiến bước tới sự tròn đầy của việc Mặc khải nơi Đức Giêsu Kitô. Cuối cùng Sách Thánh mặc khải cho ta Mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo Hội , nội dung đức tin của ta. Theo nghĩa đó, có một sự thống nhất giữa Cựu ước và Tân ước, bởi vì cả hai đều nói đến việc Đức Giêsu Kitô ngự đến, hành động và làm cho ta khám phá ra Người.


c. Chúa muốn nói với tôi điều gì qua bản văn này?

Vì ý định Thiên Chúa đã tỏ ra nơi Đức Giêsu Kitô có nghĩa phổ quát và bao gồm hết mọi người, nên Lời có gì đó để nói với mọi người. Lời Chúa trải qua muôn ngàn thế hệ. Bởi vậy ta có thể để những gì mình đọc tác động đến nội tâm và coi xem những lời đó đụng tới ta ở điểm nào, chất vấn ta, giúp ta hoán cải và bước theo Đức Kitô cách cụ thể, trong đời sống đức tin, đức ái và đức cậy, cho đến ngày ta được hoàn toàn thuộc về Đức Kitô, Chúa ta.


3 . Đọc Lời Chúa trong Giáo hội

Theo mức độ ta đón nhận Lời, Lời có thể biến đổi đời ta thực sự. Đó là một phương tiện để ta gặp nhau theo nhóm, theo cộng đoàn. Lời Chúa cho ta hiểu biết nhau hơn và mở lòng ta ra cho hoạt động của Chúa và cho sự hiện diện của người.

Lời chúa được trao phó cho Giáo Hội, nên cũng nhờ Giáo hội mà chuyển đạt cho ta. Cách giải thích đúng đắn Lời Chúa đuợc huấn quyền của Giáo Hội thực hiện. Huấn quyền không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời, nghe Lời và trình bày Lời cách trung thực và có Thánh Linh phù trợ.


4. Một số nguy cơ nên tránh

a. Bỏ Cựu ước để chỉ lo đến Tân ước. Nói là Cựu không có nghĩa là hết thời, nhưng là một trương lực hướng tới cái mới và còn phải tiếp tục.

b. Đọc Sách thánh mà chỉ quan tâm về mặt lịch sử hay khoa học và quên rằng cuốn sách này là tấm gương phản chiếu việc Chúa mặc khải cho một dân tộc. Sách thánh ghi lại lịch sử một dân tộc, nhưng không nhằm chủ yếu cung cấp cho ta sự hiểu biết lịch sử nhờ vào các tư liệu của thời đại

c. Đọc Sách Thánh mà bám sát theo nghĩa đen và không lưu ý đến các thể văn trong đó. Một cách đọc sát chữ có nguy cơ quên rằng giữa Sách Thánh và chúng ta có một khoảng cách cần biết tôn trọng, khoảng cách không gian, thời gian, não trạng, cấu trúc và nội dung.

d. Đọc Sách thánh mà thiêng liêng hóa tức khắc, nghĩa là gạt đi tất cả nền tảng của lịch sử Thánh Kinh, hòng lấy ra tức khắc một bài học thiêng liêng và đạo đức thôi. Nguy cơ là kéo Sách Thánh về phía mình và sử dụng cho mục đích hoàn toàn riêng tư.

e. Dùng Sách Thánh để hợp lý hóa các thực hành của ta. Dĩ nhiên, Sách Thánh tạo hứng khởi cho việc thực hành của ta, nhưng nguy cơ là chúng ta đi ngược chiều, nghĩa là đi tìm trong Sách Thánh nguyên những gì hợp thức hóa cho ta và cuối cùng tránh né tất cả những gì Lời chúa chất vấn hành động của ta và mời gọi ta hoán cải.


5. Các thể văn

Có nhiền cách để kể chuyện. Cũng như trong văn chương, Sách thánh sử dụng nhiều thể văn:

• Thể văn pháp lý

• Thể văn lịch sử

• Thể văn ngôn sứ

• Thể văn thi ca



VII. PHƯƠNG PHÁP ĐỌC, SUY NIỆM LỜI CHÚA & CẦU NGUYỆN.

Phương pháp «Đọc, Suy Niệm Lời Chúa và Cầu Nguyện» được tiến hành theo 6 bước như sau:


    1. Chuẩn bị - xin ơn Chúa Thánh Thần (Preparatio).


    2. Đọc và tìm hiểu bản văn (Lectio): Đọc chậm rãi từng chữ từng câu một đoạn văn Kinh Thánh. Không cần đọc lấy nhiều.  Đọc đi đọc lại nhiều lần. Nhất là những câu ngắn mà chúng ta thấy hay thấy thích, chúng ta có thể lặp đi lặp lại nguyên văn các câu ngắn ấy nhiều lần. Đọc trong tâm tình yêu mến, lắng nghe, tìm hiểu, đón nhận ơn soi sáng và ơn tác động của Thánh Thần.

a/ Quan sát bằng cách tự đặt cho mình những câu hỏi như: Ở đâu? khi nào? //Ai?// Làm gì? //Nói gì?

b/ Giải thích bằng cách tự đặt cho mình những câu hỏi như: tại sao? … có ý nghĩa gì? ….  ám chỉ hay ngụ ý gì?

Ví dụ:

(1o) H: Tại sao Gia-kêu tìm biết Đức Giê-su?

T: Gia-kêu tìm biết Đức Giê-su (có thể) vì Gia-kêu đã nghe nói nhiều về Người nên tò mò muốn biết Đức Giê-su là người thế nào và (cũng có thể) vì trong tâm hồn, Gia-kêu có nỗi khắc khoải sâu kín về đời sống công chính, về ơn cứu độ.

c/ Tóm kết ý nghĩa đoạn văn trong một câu vắn gọn:

        (1o) Trong đoạn Kinh Thánh này, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là ai?

        (2o) Chúng ta học được điều gì từ đoạn Kinh Thánh này? Hay Lời Chúa trong đoạn Kinh Thánh này đem sứ điệp gì đến cho chúng ta?


3. Suy niệm (Meditatio): Trong thinh lặng, chúng ta tự hỏi trong lòng: Lời này, câu này, sự kiện này có ý nghĩa gì? Thiên Chúa, Chúa Giê-su có dành riêng cho tôi lời này, câu này, biến cố  này không? Thiên Chúa, Chúa Giê-su muốn nòi gì với tôi qua lời này, câu này, biến cố này? Thiên Chúa, Chúa Giê-su mời gọi tôi làm gì?

Ví dụ:

(1o) “Gia-kêu tìm biết Đức Giê-su”: Tôi có tìm biết/thấy/gặp Chúa Giê-su không? Tôi tìm biết/thấy/gặp Chúa Giê-su bằng những cách nào?


4. Cầu nguyện (Oratio): Cầu nguyện tức để Lời Chúa đánh động tâm hồn tạo nên những tâm tình cầu nguyện (Oratio)

Trong thinh lặng, chúng ta để Lời Chúa đánh động tâm hồn mình, để Thánh Thần làm dậy lên những tâm tình thờ phượng, ngợi khen, cảm tạ, khát khao, cảm thông, chia sẻ, sám hối ăn năn và quyết tâm sửa đổi. Và chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình mà Thánh Thần đã khơi lên trong tâm hồn chúng ta.

Ví dụ:

(1o) Tôi có tâm tình gì khi đọc đi đọc lại đoạn Phúc Âm Lc 18,1-10 này?

(2o) Khi đọc đi đọc lại đoạn Phúc Âm Lc 18,1-10  tôi có ngưỡng mộ ông Gia-kêu  và nhất là Chúa Giê-su không?

(3o)Khi đọc đi đọc lại đoạn Phúc Âm Lc 18,1-10  tôi có muốn noi gương bắt chước Gia-kêu không?


5. Chiêm niệm (Contemplatio): Cầu nguyện chiêm niệm: chiêm ngưỡng Chúa và để tâm hồn cháy lửa yêu mến Chúa (Contemplatio) 

Trong thinh lặng tuyệt đối, chúng ta hướng mắt, hướng lòng về Thiên Chúa, về Chúa Giê-su để nhìn ngắm, chiêm ngưỡng, để yêu mến Người. Chúng ta cố giữ cho tâm hồn trống rỗng, không vướng bận một việc gì khác….để lòng kề lòng với Thiên Chúa, với Chúa Giê-su.


6. Dấn thân hành động (Actio): Dấn thân hành động theo lời mời gọi, sự gợi ý của Chúa (Actio)

Cách “Đọc, Suy Niệm Lời Chúa và Cầu Nguyện” chỉ hoàn hảo khi chúng ta đáp lại lời mời gọi, sự gợi ý của Chúa mà chúng ta đón nhận được trong quá trình các bước kể trên.

 Chúng ta đáp lại lời mời gọi, sự gợi ý của Chúa bằng một quyết tâm. Nhưng quyết tâm ấy phải có hành động cụ thể kèm theo. Chỉ có quyết tâm không thì chưa đủ, mà phải có việc làm cụ thể, thiết thực mới là nghe và thực thi ý muốn của Chúa (đối chiếu cuộc sống với bài Tin Mừng: «Đối chiếu với cuộc sống, bạn đã sống bài Tin Mừng này thế nào?»)




+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức

Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.

Cầu cho các linh hồn mồ côi và xin Chúa giúp chúng ta tránh xa tội lỗi.

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Related Posts with Thumbnails

Tìm kiếm trên website MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Loading

Danh sách bài đã đăng