Đức Giáo Hoàng BÊNÊĐICTÔ
DẪN NHẬP
Cử hành Năm Linh mục chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội nhiều linh mục thánh thiện, khôn ngoan, và nhiệt thành với việc phục vụ đàn chiên. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các ngài được mỗi ngày trở nên giống Chúa Kitô Mục Tử: hi sinh, khiêm nhường, hiền hòa và sống trọn vẹn sứ vụ linh mục. Trong khi học hỏi về Thánh Phaolô, chúng ta thấy nơi ngài có nhiều đức tính gương mẫu đáng cho các linh mục noi theo. Xin được gợi ra một vài điểm để cùng nhau suy nghĩ và thực hành. Trước hết, chúng ta lắng nghe lời khuyên nhủ của ngài: - “Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu tòan chức vụ của anh” (2 Tm 4, 5). - “Anh em làm chứng, và Thiên Chúa cũng chứng giám rằng, với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách thánh thiện, công minh, không chê trách được. Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con” (1 Tx 2, 10- 11 ).
TRÌNH BÀY
Thánh Phaolô nêu cho chúng ta nhiều gương sáng về đời sống linh mục, nhưng ở đây chúng ta chỉ suy nghĩ vắn tắt ba khía cạnh: con người, đời sống thiêng liêng và phương thức họat động tông đồ của ngài.
1./ Phaolô, một bản lĩnh được tôi luyện vững vàng Bi kịch Stêphanô tử đạo được sách Công vụ Tông đồ thuật lại hé mở cho chúng ta thóang thấy một Phaolô trẻ, lúc đó có tên là Saolô, có cá tính mạnh mẽ (8,1). Người thanh niên ấy không bàng quan trước một biến cố quan trọng liên quan đến tôn giáo mà anh và cộng đồng của anh đang hết lòng theo đuổi, nhưng đã chọn một thái độ rõ ràng, dứt khóat. Những bài tường thuật của sách Công vụ dần dần mở ra thì cũng là những trang sách giúp chúng ta nhận rõ thêm dung mạo của vị Tông đồ dân ngọai. Đồng thời chính qua những thư ngài viết cho các giáo đòan mà người ta nhận rõ được những nét cá tính nổi bật của ngài: trí thông minh sắc bén, ý chí mạnh mẽ cương quyết, tình cảm sâu đậm nồng thắm, tính tình năng động nhiệt thành... Nếu trước biến cố Đamas tính tình đó đã làm cho nhiều Kitô hữu “thất điên bát đảo”, thì sau khi Phaolô được Chúa chọn để trở thành một “lợi khí”(Cv 9,15), lại trở nên những đức tính thiết yếu cho sứ vụ tông đồ. Thật vậy, tất cả những khó khăn và thách đố trong đời tông đồ của ngài, dù từ thiên nhiên, từ con người, hay do những thế lực cường quyền, như một phần được nhắc đến trong 2Cr 11,23-29 đều không thể làm cho ngài chùn bước, trái lại nuôi dưỡng thêm ý chí trung kiên và niềm xác tín hơn vào tình yêu của Chúa trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Làm sao có thể nói như ngài trong Rm 8,35-39 nếu không hòan tòan xác tín vào tình yêu vô cùng của Chúa: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?...Trong mọi thử thách ấy, chúng ta tòan thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” Ngày nay đã sau hơn hai nghìn năm, khi đến một thành phố cổ của đế quốc Rôma như Êphêsô, người ta như vẫn còn choáng ngợp trước cảnh hoành tráng, đồ sộ, nguy nga của thành quách, đền đài, dinh thự, tượng thần do tàn tích để lại. Tất cả như vẫn còn phô diễn quyền lực tột bậc của một đế chế hùng mạnh vào bậc nhất trong lịch sử nhân lọai. Vậy mà chính vào thời đó, một Phaolô trần trụi, “tứ cố vô thân” lại dám nhân danh một tử tội chịu đóng đinh là Giêsu để rao giảng rằng mọi đầu gối đều phải bái quỳ khi nghe Danh thánh Giêsu (Pl 2,9-11). Thật là một điều không thể tưởng tượng nổi. Tuy nhiên, kế hoạch cứu thế của Chúa đã thành tựu qua con người yếu đuối nhưng đầy kiên cường ấy: tòan đế quốc Rôma đã được tin mừng hóa vài thế kỉ sau đó. Chính ngài đã tâm sự với chúng ta: “Omnia possum in eo qui me confortat” (Tôi làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi) (Pl 4,13). Bản lĩnh vững vàng trong con người linh mục hôm nay không khác thời của Thánh Phaolô, đó là xác tín trọn vẹn vào ơn gọi và sứ vụ linh mục, kiên trì can đảm chu tòan trách nhiệm mục tử của mình trong niềm phó thác cậy trông, và nhiệt thành phục vụ đàn chiên Chúa cho dù gặp khó khăn thử thách.
2./ Phaolô, con người đắm chìm trong cầu nguyện Sức mạnh tinh thần của Phaolô như vừa nói bắt nguồn từ một đời sống cầu nguyện thẳm sâu. Sứ vụ tông đồ của ngài khởi đầu bằng cầu nguyện, và theo truyền thống Kitô giáo, kết thúc bằng kinh nguyện trong hiến tế tử đạo. Tòan bộ công cuộc truyền giáo của ngài được xây dựng và phát triển trên nền tảng cầu nguyện. Đối với Phaolô, kinh nghiệm Kitô giáo chủ yếu là đời sống cầu nguyện. Sao nhãng việc cầu nguyện là điều không thể quan niệm được trong đời sống Kitô hữu. Tường thuật của sách Công vụ Tông đồ đã nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của cầu nguyện trong đời sống của Thánh Phaolô. Biến cố hóan cải, nhận sứ vụ ủy thác, phép rửa, và họat động truyền giáo, tất cả đều liên quan tới cầu nguyện. Saolô nghe thấy Stêphanô cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu” (Cv 7,59-60; 22,20). Và sau đó trong biến cố Đamas, Saolô đã trực tiếp thưa với Chúa Phục Sinh, gọi Người là “Chúa” (9,5). Trong ba ngày ăn chay cầu nguyện tiếp theo (9,11), Saolô lần đầu tiên đã nhận ra rằng “Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa” (9, 20). Lắng nghe lời ủy thác của ông Khanania về sứ mạng tông đồ, Saolô lãnh phép rửa trong khi “kêu cầu danh Chúa Giêsu” (Cv 22,16; Rm 10,9-14). Sau đó, vị Tông đồ được Chúa ra chỉ thị riêng khi ngài đang cầu nguyện “xuất thần” trong đền thờ Giêrusalem (Cv 22, 17; x. 9,26-30; 16,9-10). Chính trong khi “cầu nguyện và ăn chay” mà Hội Thánh tại Antiôkia được nhắc bảo là phải dành riêng Barnabê và Saolô cho sứ vụ loan báo Tin Mừng (Cv 13,2-3). Hai nhà truyền giáo đã khích lệ các kì mục của các giáo đòan non trẻ tại Lystra, Iconium và Pisidia phải cầu nguyện và ăn chay (Cv 14,23). Chuyến hành trình cuối cùng lên Giêrusalem đã bắt đầu bằng một cảnh tượng thật ngậm ngùi: lời cầu nguyện chan hòa cùng nước mắt của các kì mục tiễn đưa ông Phaolô (Cv 20,36-47). Sau đó, bầu khí cầu nguyện được đẩy tới một khung cảnh hết sức cảm động: cộng đòan tại miền Tyrô gồm các môn đệ, phụ nữ và trẻ em đã cùng quỳ xuống cầu nguyện ngay trên bãi biển cho phái đòan của Phaolô lên đường! (Cv 21,5). Sau cùng, tác giả sách Công vụ Tông đồ thật tuyệt vời khi tường thuật hiệu năng lời cầu nguyện của Thánh Phaolô cho người khác vào giai đọan cuối trong hành trình sứ vụ của ngài. Thánh Luca viết, “sau khi cầu nguyện” ông Phaolô đặt tay chữa bệnh cho ông Publiô là thân phụ của một viên chức quan trọng trên đảo Malta. Chắc chắn việc này được thực hiện nhiều lần, bởi vì “các bệnh nhân trên đảo cũng đến và đều được chữa lành” (Cv 28, 8- 9). Chắc chắn một phần gia sản Do Thái giáo đã tạo nên nếp sống cầu nguyện nơi Phaolô, như ngài đã xác nhận trong Gl 1,14. Nhưng sau biến cố Đamas, chính Chúa đã biến đổi tất cả chất liệu thô sơ ban đầu trong con người Phaolô để nó trở thành một viên ngọc quý tinh ròng, thuần khiết nhất trong kho tàng thiêng liêng Kitô giáo. Ngày nay chủ đề cầu nguyện là một trong những lãnh vực phong phú nhất khi tìm hiểu về Thánh Phaolô. Người ta có thể thiết lập một ngữ vựng về lời cầu nguyện của ngài (pauline prayer vocabulary) và cho biết ngài sử dụng những từ ngữ về cầu nguyện thật phong phú và sử dụng nhiều hơn các tác giả khác trong Tân Ước. Người ta có thể phân tích, xếp lọai các hình thái cầu nguyện của Thánh Phaolô. Và người ta có thể xây dựng những đường hướng thần học về cầu nguyện theo Thánh Phaolô. Cũng chính vì vai trò quan trọng của cầu nguyện trong đời sống linh mục mà dịp tiếp kiến các giám mục được tấn phong trong năm vừa qua, Đức thánh cha Bênêđictô XVI đã nhắc nhở các giám mục và linh mục: “Dù quan tâm đến những vấn đề của đời sống thường ngày và những sáng kiến nhằm hướng dẫn con người trên đường theo Chúa, chúng ta không được sao nhãng sự kết hợp cá vị và sâu xa với Chúa Kitô. Việc sẵn sàng phục vụ con người không được làm suy yếu hay ngăn trở sự kết hợp với Chúa. Thời giờ mà linh mục và giám mục dành cho trong cầu nguyện chính là thời giờ được sử dụng tốt nhất, vì cầu nguyện chính là linh hồn của hoạt động mục vụ” (Diễn từ ngày 23.09.2009).
3./ Phaolô, người xây dựng cộng đòan Giáo hội tham gia Một khía cạnh được nhiều người tìm hiểu Phaolô quan tâm, đó là phương thức làm việc tập thể trong họat động tông đồ của ngài. Dù người ta ghi nhận những dấu ấn cá biệt và sâu đậm của Phaolô trong đời sống cộng đoàn Giáo hội sơ khai và lịch sử Kitô giáo nối tiếp sau đó thì công cuộc loan báo Tin Mừng ở những bước khởi đầu ấy đã không chỉ do một mình Phaolô đảm trách, mà gồm nhiều người cùng tham gia, tạo nên một tập thể năng động, trẻ trung, nhiệt thành, sáng tạo, và đầy sức sống. Con số những cộng sự viên chính của Phaolô được ghi nhận danh tính và hòan cảnh riêng lên tới khoảng một trăm người, gồm nhiều thành phần đa dạng xuất phát từ những cộng đòan địa phương, trong số này bốn chức danh thường được nói tới: người đồng sự, người anh em, người phục vụ và tông đồ. Người ta đặc biệt ghi nhận trong số những cộng sự viên đó có nhiều người là phụ nữ (Rm 16,15; Cl 4,15, Plm 1-2; x. Rm 16,13, 15-16; Cv 16,14-15, 40) và bà con họ hàng của ngài (Rm 16,7,11,21). Khi tiếp cận một cộng đòan mới, điều Phaolô quan tâm trước tiên đó là thu phục và tập hợp những người cộng tác nhiệt thành và quyết tâm. Chúng ta thấy ngài thường phối hợp hành động với một nhóm những nhà lãnh đạo và cộng sự viên ngay tại địa phương. Ngài xác tín rằng công cuộc loan báo Tin Mừng phải là một nỗ lực kết hợp, một trách nhiệm chung, một lí tưởng cùng được tham gia. Trong khuôn khổ ở đây chúng ta không thể trình bày hết phương thức tốt đẹp và đầy hiệu năng này, mà chỉ đưa ra một vài dẫn chứng cho thấy Phaolô thật tài khéo trong việc cộng tác với những tín hữu bình thường để nối kết các họat động tông đồ. Tại Côrintô, Phaolô ở lại tại nhà của vợ chồng Aquila và Priscilla. Nhà của họ trở thành nơi hội họp cho các Kitô hữu mới trở lại. Sự nhiệt thành cộng tác của hai người này thật tốt đẹp đến nỗi khi rời Côrintô để đi Êphêsô, ngài quyết định đưa cặp vợ chồng này theo. Ngài tín nhiệm họ, đặt họ ở lại đây trông coi cộng đòan mới này để ngài trở về Giêrusalem thực hiện một lời khấn hứa với Chúa. Khi trở lại, ngài hết sức vui mừng nhận ra rằng sự tín nhiệm của mình đã đem lại thành quả tốt đẹp: vợ chồng Aquila và Priscilla đã xây dựng cộng đòan phát triển nhiều mặt. Họ còn thuyết phục được Apollô, một nhà giảng thuyết Do Thái lừng danh quê ở Alexandria trở lại. Phaolô cảm thấy vô cùng khích lệ nhận ra rằng hai vợ chồng nhiệt thành này đã đặt những nền móng đầu tiên cho giáo đoàn tại Êphêsô. Chính từ nơi nhà họ ở mà ngài đã viết cho tín hữu Côrintô: Aquila và Priscilla cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa) (1 Cr 16,19). Nếu Tin Mừng đã cho chúng ta thấy sự đóng góp tích cực của các phụ nữ trong sứ vụ của Chúa Giêsu thì đối với Phaolô, ngài cũng đã dùng những phụ nữ rất đỗi bình thường trong xã hội để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng. Đó là tại Philipphê, một phụ nữ tên là Lyđia, làm nghề buôn vải điều. Bà chú tâm lắng nghe những lời Phaolô giảng dạy. Sau khi đã trở lại, bà thuyết phục cả nhà mình cùng chịu phép rửa, và tha thiết mời Phaolô ở lại nhà mình. Nhà của bà sau đó trở thành nơi quy tụ các tín hữu để thành lập một cộng đoàn mới (Cv 16,12-15). Sau này khi viết cho tín hữu Philipphê, Phaolô còn đề cập đến hai phụ nữ khác đã tích cực giúp ngài trong công tác tông đồ (Pl 4, 2-3). Với tất cả sự thao thức, các vị chủ chăn của Giáo hội Việt Nam mời gọi chúng ta xây dựng một Giáo hội hiệp thông và tham gia, “trong đó tất cả đều thực hiện ơn gọi riêng và hòan thành vai trò riêng…, nhờ thế mà cảm thức về một gia đình của Chúa Kitô được triển nở, đến nỗi mọi người có thể nói bằng tất cả trách nhiệm và niềm hãnh diện rằng“Tôi là Giáo hội” (x.Tài liệu cử hành Năm Thánh: Giáo Hội tại Việt Nam, các số 20-22). Trong nỗ lực chung này, thiết tưởng các linh mục sẽ giữ một vai trò quan trọng, thiết yếu.
KẾT LUẬN
Trong Thư mục vụ tháng Chín 2009 gửi cộng đồng Dân Chúa trong giáo phận, Đức cha đã đề ra chương trình tu đức và mục vụ trong Năm Linh Mục. Ở đây ngài đã nhìn nhận các linh mục cần phải được thường huấn, được trang bị thêm chuyên môn, và tập huấn để làm việc chung hầu có thể đáp ứng những nhu cầu mục vụ của một xã hội đang biến đổi nhanh chóng. Qua những gì tìm hiểu, chúng ta có thể nghĩ rằng: nếu chúng ta kiên trì tìm hiểu và học hỏi với Thánh Phaolô, chắc chắn ngài sẽ đóng góp với chúng ta những lời giáo huấn quý giá trong chương trình đào tạo này.
(Lm Giuse Ngô Quang Trung lược dịch từ bản tiếng Pháp của ĐGH Bênêđictô) |
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Cám ơn quý vị đã xem trang web này, xin giới thiệu cho nhiều người cùng xem.