VietCatholic News (24/04/2006)
ĐÔI NÉT VỀ THẦN HỌC THÂN XÁC
Ở đâu chúng ta cũng nghe nói tới chuyện ngừa thai, phá thai, ly thân, ly dị, tiêu hôn. Đây là đề tài nóng bỏng, cũng là vấn nạn hiện nay cho nhân loại nói chung và người công giáo nói riêng. Dĩ nhiên Giáo hội hết sức quan tâm, luôn cố gắng tìm phương thế để giải quyết vấn đề được xem như thời sự cấp bách này. Giáo Hội qua các thời đại đã có tới 6000 trang viết về đề tài hôn nhân, tình dục, gia đình. Đặc biệt cố Giáo Hoàng Gioan Phao lô 2 đã đóng góp tới 4000 trang trong số 6000 này (1). Nói lên quan tâm hàng đầu của ngài cho hạnh phúc gia đình công giáo. Ngay từ cuối thập niên 50, lúc còn là Giám mục phó ở giáo phận Krakow ngài đã viết tuyệt phẩm “Tình yêu và trách nhiệm”, Tác phẩm bất hủ này dành cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Nhưng đặc biệt nhất là ngài khôn ngoan, táo bạo khởi xướng “Thần Học Thân Xác”, nó có thể chữa lành và ngăn ngừa mọi vấn đề của hôn nhân gia đình. Ngài trình bày một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, hết sức độc đáo về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa –trên cơ sở Thánh Kinh-, ngài hướng dẫn một cung cách sống –trang bị những kiến thức, phương tiện cần thiết- để tự tìm thấy hạnh phúc (bắt đầu từ vợ, chồng), mà Thiên Chúa đã định sẵn cho nhân loại ngay từ ban đầu.
Theology of the Body (tạm dịch là Thần học Thân Xác). Đây là chủ đề quan trọng đầu tiên cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trình bày vào thứ tư hàng tuần từ năm 1979 đến 1984. 129 bài giảng ngắn này được gom lại phát hành với tựa đề The Theology of the Body: Human Love in Divine Plan (tạm dịch Thần Học Thân Xác:Tình yêu Nhân loại trong Kế hoạch của Thiên Chúa) (do Pauline Books and Media ấn hành năm 1997, chứ không phải do ngài phát hành). Không ai có thể chối cãi được rằng với sự thâm thúy thần học và chính phong cách, đạo đức cá biệt của riêng mình, Gioan Phao lô 2 đã tạo được ảnh hưởng quá lớn cho cả người Công giáo lẫn không Công giáo. Là học giả uyên thâm cả hai hệ thần học truyền thống Augustinô and Thomas Aquinô, ngài khám phá ra một sự hợp nhất hết sức mới mẻ giữa đức tin và lý trí. Ngài cho rằng nghiên cứu về Thiên Chúa cũng là nghiên cứu về nhân loại, vì con người được mạc khải trong ánh sáng của Đức Kitô. Ngài nói: “Chúa Giêsu Kitô là khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa, và khuôn mặt Thiên Chúa của loài người”.
Thần Học Thân Xác đưa ra một cái nhìn lộng lẫy đối với nhân vị con người. Ngài đưa ra giáo huấn mà trung tâm là con người, qua con người hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Bắt đầu từ sách Sáng thế, ngài bàn thảo về chiều kích thân xác của nhân loại: bản năng tính dục, tình yêu, hôn nhân và gia đình trong ánh sáng mạc khải Thánh kinh. Ngài đã dám trình bày triết lý về thân xác con người một cách lạ lùng,, táo bạo, điều mà từ trước đến nay chưa từng có giáo sĩ nào dám nghĩ hoặc dám viết (ngài đã có những suy tư này từ lúc còn là một Linh mục trẻ). Đây đúng là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này. Thời đại mới có những vấn đề mới, nên cần có tư duy mới, cái nhìn mới, khung sườn mới, từ vựng mới để giúp cho những giáo huấn nghiêm khắc của Giáo hội thêm phần hấp dẫn, thu hút, hầu làm tỏ lộ sự rực rỡ của chân lý.
Đức Thánh Cha định nghĩa rằng: ”Thân xác, thật sự –chỉ riêng một mình nó- có khả năng làm cho thấy được một cách cụ thể những điều trừu tượng, không thể trông thấy : thuộc tâm linh và Thiên Chúa. Thân xác được tạo dựng để thông chuyển vào thế giới thực tại này mầu nhiệm được dấu kín từ muôn thuở của Thiên Chúa, và nó chính là dấu hiệu đó” (2). Ngài cho rằng nếu như con người luôn ao ước tìm kiếm Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng y như vậy, Ngài cũng ao ước mạc khải chính mình cho nhân loại. Ngài khởi đầu sự mạc khải bằng cách tạo dựng nên con người, người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài. Chính thân xác con người –như sự Nhập Thể sẽ làm chứng- do đó, cũng chính là : một tính chất của Thiên Chúa mạc khải.
Bắt đầu bằng đoạn Tin Mừng khi nhóm Pharisiêu hỏi Ngài về Môsê cho phép ly dị, Chúa Giêsu trả lời :”Các ông không đọc thấy điều này sao:”Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ”, và Người đã phán :”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Họ thưa với Người:”Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ ?” Người bảo họ :”Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19:3-8). Đức Thánh Cha nêu bật lên ý tưởng người nam, người nữ; cũng như Chúa Giêsu đã dùng đến hai lần “lúc ban đầu”. Ngài cho rằng đây là kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Dựa theo Thánh Kinh ngài triển khai và trình bày ba bối cảnh: cảm nghiệm cô đơn nguyên thủy, kết hợp nguyên thủy và sự trần truồng của nguyên tổ. “Trần truồng nhưng không cảm thấy xấu hổ”, theo ngài đây là chìa khóa để hiểu được kế hoạch nguyên thủy tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Thiên Chúa đóng ấn kế hoạch yêu thương của Ngài vào người nam, người nữ. Mỗi người đều mang “ý nghĩa hôn nhân thân xác”, tức có khả năng diễn đạt tình yêu, chính nhờ tình yêu đó con người trở thành quà tặng và kiện toàn chính ý nghĩa bản thể và sự hiện hữu của nó. Nhìn vào giới tính bản thân, mỗi người sẽ nghiệm thấy mình được kêu gọi, được sắp đặt để sống và để yêu thương theo hình ảnh Thiên Chúa, chỉ khi nào cho đi chính mình bấy giờ con người mới khám phá đầy đủ, thật sự về mình. Người nam, người nữ đã được tạo dựng và được cứu chuộc. Ngài cho rằng con người được Thiên Chúa ban cho lòng ao ước tình dục, như một sức mạnh kêu gọi con người phản ánh kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: cho đi chính mình.
Hôn nhân là điểm trung tâm của “Bí tích Tạo Dựng” -Bí tích hôn nhân là bí tích căn bản, nếu không có bí tích này sẽ không thể có các bí tích khác-.( Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 cho rằng rằng hôn nhân là bí tích đầu tiên đã được Thiên Chúa thiết lập, và định nghĩa của hôn nhân được ta gặp thấy nơi những trang đầu tiên của Kinh Thánh... Bí tích hôn nhân không phải do giáo hội sáng chế ra, nhưng được “cùng thiết lập” đồng thời với việc tạo dựng con người xét như là người, như là sức năng động của tình yêu trong đó người nam và người nữ gặp nhau và gặp Đấng Tạo hoá, là Đấng kêu gọi cả hai đến với tình yêu ) (3). Hôn nhân vợ chồng không chỉ là sự hiệp nhất “nên một thân xác”, nó còn biểu lộ rõ ràng tính bí tich, sự hiệp thông, cho đi và nhận lại. Do đó vợ chồng trao ban cho nhau chính mình như quà tặng chân thành, trao ban hoàn toàn, tự do, trung tín và sinh hoa trái.Trong ân ái vợ chồng, họ sử dụng “ngôn ngữ của thân xác”, diễn đạt sự kết hiệp sâu sắc không ngôn từ nào có thể làm được. Chính bằng ngôn ngữ này trong tình yêu hổ tương, họ khám phá ở nhau và ở chính mình những gì sâu xa nhất : một sự sống mới. Và mỗi lần đạt đến khoái cảm là mỗi lần giao ước hôn nhân được làm mới. Gia đình phải nhắm đến vương quốc của Chúa. Qua sinh hoạt tình dục, vợ chồng phải nhận biết rằng đây chỉ là –như được nếm trước- một phần rất nhỏ của hạnh phúc tuyệt diệu trên trời –trí khôn loài người không mường tượng ra được-, nên vợ chồng phấn đấu không ngưng nghỉ để đạt đến. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì tai họa sẽ ập đến. Gia đình là hình tượng báo trước, là mũi tên chỉ đường, nhắm đến hạnh phúc viên mãn cuối cùng là Hôn Nhân Thiên Quốc : nơi Thiên Chúa và nhân loại; Giáo Hội và Chúa Kitô kết hiệp trọn vẹn vĩnh viễn.
Ngài cũng đưa ra hai ơn gọi sống độc thân vì nước trời và sống gia đình, tuy hai ơn gọi khác nhau nhưng lại quấn vào nhau. Ơn gọi này bổ túc và làm sáng tỏ ơn gọi kia. Cùng trao ban chính mình cho kẻ khác theo cung cách khác nhau, và nhắm đến cùng một đích điểm : hôn nhân Thiên Quốc. Ngài triển khai bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã khơi động lại và chi tiết hóa kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Kêu gọi tất cả mọi người “giải phóng khỏi sự thèm muốn” Vì thèm muốn tức không có tình yêu –dù làm chồng cũng không được thèm muốn vợ mình-. Khi không có tình yêu, vợ chồng không đối xử với nhau như hai chủ thể tối cao, như ý định ban đầu của Thiên Chúa, nhưng xem nhau như đối tượng có thể xử dụng được, dùng nhau như phương tiện để thỏa mãn thú vui cho mình. Ngài trình bày về sự sống theo Thần Khí (dựa và giáo lý của Thánh Phao lô về thân xác con người), sự phục sinh của thân xác v.v... và cuối cùng là Tin Mưng cho Sự Sống : ngài trình bày một cách sống động về hôn nhân, vợ chồng. Ngài bắt đầu bằng sự giảng dạy rằng tất cả cha mẹ đều được kêu gọi để ý thức tránh nhiệm trong việc sinh dưỡng con cái. Những khúc mắc, khắc khoải của hôn nhân, gia đình đều được giải đáp một cách nhân bản ở đây, cũng như làm thế nào để sống hạnh phúc, nhờ sức mạnh nào để trở thành chứng nhân thực sự cho Chúa Kitô trong đời sống gia đình v.v...
Nhiều người tự hỏi tại sao sau hơn hai thập niên Thần Học Thân Xác ra đời -trong khi giới trẻ hôm nay nguội lạnh, thờ ơ, có khuynh hướng đánh mất đức tin-, có thể chữa lành và ngăn chận “nền văn hóa sự chết”, nó tối cần thiết cho hôn nhân, gia đình và vấn đề tính dục, nó có thể làm thay đổi não trạng con người hôm nay, bộ mặt thế giới này (ngài không ngần ngại tuyên bố rằng:”Tương lai nhân loại đi ngang qua con đường của gia đình”) như thế, nhưng hầu hết người công giáo vẫn chưa biết nó hiện hữu; hay còn rất xa lạ ! Trước hết xin trích dẫn một số ý kiến về đề tài này.
Ông George Weigel, trong cuốn “Witness to Hope” (4) cho rằng Thần Học Thân Xác là trái bom thần học nổ chậm, nó sẽ nổ gây hậu quả khốc liệt trong thiên niên kỷ thứ 3 này. Nó có sự phân nhánh của tất cả các thần học, thách đố chúng ta nghĩ về bản năng tính dục như là phương cách để nắm bắt được cốt lõi của con người, và xuyên qua đó nhận biết được ít nhiều về Thiên Chúa. Thân xác chúng ta được đóng ấn nam, nữ “lúc ban đầu” là cửa sổ để có thể nhìn thấy những ý định và bản tính của Thiên Chúa Tạo Hóa.
Giám Muc Angelo Scola, Viện trưởng Pontifical Lateran University ở Rôma, cho rằng các luận đề thần học về Thiên Chúa, Chúa Kitô, Thiên Chúa ba ngôi, ân sủng, Giáo hội, các bí tích, có thể được nhìn thấy trong một ánh sáng mới mẻ, nếu như các thần học gia biết khai thác vào chiều sâu và sự súc tích của nhân vị được bao hàm trong Thần Học Thân Xác của Gioan Phaolô 2. (5)
Học Giả Mary Healy (tác phẩm Men and Women are from Eden) cho rằng có hai lý do chính khiến người ta chưa biết đến hay còn xa lạ với Thần Học Thân Xác. Thứ nhất, ngài viết quá cô đọng, súc tích. Loi trình bày cũng hơi khác lạ, hầu hết chúng ta quen dùng lối suy luận của Châu Âu hay Hy Lạp cổ điển : trình bày điểm A hướng tới điẻm B, rồi tới điểm C v.vv... Ngài trình bày cách khác. Tư điểm A ngài xuất phát, rồi lại trở về điểm A, nhưng sau đó ngài luôn luôn đi đến một mức độ sâu xa hơn nhưng rất sát với ý tưởng Thánh KInh. Điều này đòi hỏi thời gian để có thể làm quen được. Thứ hai, trong thế hệ vừa qua, không khí bất đồng đầy dẫy trong nhiều cơ cấu Giáo hội. Nhiều Đại học, cơ sở giáo dục của địa phận, giáo xứ ít hăng hái, nhiệt tình về sự giảng dạy luân lý của Giáo hội, đặc biệt trong lãnh vực tính dục (Sexuality). Tình trạng này được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây, phần lớn nhờ vào các học viện của Gioan Phaolô 2 được thiết lập nhiều nơi trên thế giới. Ở những nơi này Thần Học Thân Xác được nghiên cứu kỹ lưỡng và đem áp dụng cho cho các vấn đề luân lý hiện nay. (6)
Ngày 25 tháng giêng năm 1999, Đức Thánh Cha đươc tiếp đón tại Vận động trường Aztec ở Mexicô City bằng biểu ngữ “Juan Pablo Magno, John Paul the Great”. (tạp chí Crisis magazine phát hành năm 1997 trang bìa cũng trình bày “John Paul the Great”). Xin mở ngoặc ở đây về chữ “Great”, tiếng Việt gọi là “Cả”. Trong Giáo hội chỉ có 2 vị Giáo hoàng được vinh dự với danh hiệu ‘Great” đó là Giáo hoàng Leo the Great (390-461) và Giáo hoàng Gregory (I) the Great (540-604). Giáo hoàng Leo the Great đã có công cứu Rôma thoát khỏi tay của vua Attila, và của người Huns. Giáo hoàng Gregory the Great có công giữ được nên văn minh thế giới không rơi vào tay một giống người man ri khác đó là sắc dân Lombards. Còn Gioan Phao lô 2 thì sao ? Chăc chắn không có các sắc dân man ri uy hiếp nhân loại như xưa. Có chăng chính ngài đã đóng góp rất lớn trong việc làm sụp đổ hệ thống Cộng Sản Đông Âu.
Thần Học Thần Xác có thể trả lời cho mọi thắc mắc của nhân loại, giải thích đầy đủ ý nghĩa của sự hiện hữu nam, nữ; ước muốn tính dục; và tình yêu hôn nhân. Từ vấn đề tôi là ai, tại sao tôi hiện hữu, tại sao tôi là người nam, người nữ, tại sao có sự dữ, làm thế nào để chiến thắng nó, tôi phải sống thế nào cho đúng, làm thế nào để đem đến cuộc sống hạnh phúc thật sự v.v... Nó đúng la, và có chức năng của “cuộc cách mạng”. Theo tôi, đối với hôn nhân và gia đình Thần học Thân xác có tác dụng củng cố, bổ sung, kiện toàn cho những gia đình đang sống tốt lành; nó có khả năng chữa lành, hàn gắn các gia đình đang bị rạn nứt, có khuynh hướng đỗ vỡ. Nó có thể giúp cho những gia đình tương lai, chuẩn bị đầy đủ, ngăn ngừa sự đổ vỡ, ly dị. Nếu kho báu mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội nói riêng và nhân loại nói chung này: được tìm hiểu, thực hành và quảng bá cho toàn thể thế giới. Nói cách khác mọi người, dù cho sống ơn gọi gia đình hay sống độc thân cho lợi ích nước Trời, đều ra công đóng góp để làm cho trái bom nổ chậm này phát nổ, bộ mặt thế giới sẽ thay đổi hoàn toàn. Gioan Phao lô 2 không cứu Roma thoát khỏi các sắc dân man ri, nhưng theo tôiThần Học Thân Xác của ngài cứu cả nhân loại này thoát khỏi nền văn hoá sự chết, phục hồi nền văn hoá tình thương và sự sống. Như vậy chắc chắn Gioan Phao lô không sẽ chỉ là Gioan Phao Lô Cả, mà sẽ là vị Tiến sĩ thứ 34 đầy tự hào của Giáo Hội.
Nguyện xin Thiên Chúa toàn năng, qua lời lời chuyền cầu của tôi tớ Chúa là Gioan Phao Lô 2, thương ban ơn khôn ngoan và can đảm cho những người tiếp bước trong linh đạo: 1/ Sùng kính đức Trinh Nữ Maria (Totus Tuus). 2/ Cảm nghiệm và quảng bá tư tưởng về thân xác của Gioan Phao Lô 2.
GHI CHÚ:
(1) Theo cuốn "The Splendor of Love" của Lm. Walter J. Schu, LC, (trang 52), 2003.
(2) Trang 76 (The Theology of the Body)
(3) Trích Vietcatholic News (12/04/2006)
(4) Trang 343 Witness to Hope của George Weigel
(5) Trang 343 Witness to Hope của George Weigel
(6) Trang 4 và 5 Men&Women are from Eden của Mary Healy
ĐÔI NÉT VỀ THẦN HỌC THÂN XÁC
Ở đâu chúng ta cũng nghe nói tới chuyện ngừa thai, phá thai, ly thân, ly dị, tiêu hôn. Đây là đề tài nóng bỏng, cũng là vấn nạn hiện nay cho nhân loại nói chung và người công giáo nói riêng. Dĩ nhiên Giáo hội hết sức quan tâm, luôn cố gắng tìm phương thế để giải quyết vấn đề được xem như thời sự cấp bách này. Giáo Hội qua các thời đại đã có tới 6000 trang viết về đề tài hôn nhân, tình dục, gia đình. Đặc biệt cố Giáo Hoàng Gioan Phao lô 2 đã đóng góp tới 4000 trang trong số 6000 này (1). Nói lên quan tâm hàng đầu của ngài cho hạnh phúc gia đình công giáo. Ngay từ cuối thập niên 50, lúc còn là Giám mục phó ở giáo phận Krakow ngài đã viết tuyệt phẩm “Tình yêu và trách nhiệm”, Tác phẩm bất hủ này dành cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Nhưng đặc biệt nhất là ngài khôn ngoan, táo bạo khởi xướng “Thần Học Thân Xác”, nó có thể chữa lành và ngăn ngừa mọi vấn đề của hôn nhân gia đình. Ngài trình bày một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, hết sức độc đáo về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa –trên cơ sở Thánh Kinh-, ngài hướng dẫn một cung cách sống –trang bị những kiến thức, phương tiện cần thiết- để tự tìm thấy hạnh phúc (bắt đầu từ vợ, chồng), mà Thiên Chúa đã định sẵn cho nhân loại ngay từ ban đầu.
Theology of the Body (tạm dịch là Thần học Thân Xác). Đây là chủ đề quan trọng đầu tiên cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trình bày vào thứ tư hàng tuần từ năm 1979 đến 1984. 129 bài giảng ngắn này được gom lại phát hành với tựa đề The Theology of the Body: Human Love in Divine Plan (tạm dịch Thần Học Thân Xác:Tình yêu Nhân loại trong Kế hoạch của Thiên Chúa) (do Pauline Books and Media ấn hành năm 1997, chứ không phải do ngài phát hành). Không ai có thể chối cãi được rằng với sự thâm thúy thần học và chính phong cách, đạo đức cá biệt của riêng mình, Gioan Phao lô 2 đã tạo được ảnh hưởng quá lớn cho cả người Công giáo lẫn không Công giáo. Là học giả uyên thâm cả hai hệ thần học truyền thống Augustinô and Thomas Aquinô, ngài khám phá ra một sự hợp nhất hết sức mới mẻ giữa đức tin và lý trí. Ngài cho rằng nghiên cứu về Thiên Chúa cũng là nghiên cứu về nhân loại, vì con người được mạc khải trong ánh sáng của Đức Kitô. Ngài nói: “Chúa Giêsu Kitô là khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa, và khuôn mặt Thiên Chúa của loài người”.
Thần Học Thân Xác đưa ra một cái nhìn lộng lẫy đối với nhân vị con người. Ngài đưa ra giáo huấn mà trung tâm là con người, qua con người hiểu được mầu nhiệm của Thiên Chúa. Bắt đầu từ sách Sáng thế, ngài bàn thảo về chiều kích thân xác của nhân loại: bản năng tính dục, tình yêu, hôn nhân và gia đình trong ánh sáng mạc khải Thánh kinh. Ngài đã dám trình bày triết lý về thân xác con người một cách lạ lùng,, táo bạo, điều mà từ trước đến nay chưa từng có giáo sĩ nào dám nghĩ hoặc dám viết (ngài đã có những suy tư này từ lúc còn là một Linh mục trẻ). Đây đúng là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này. Thời đại mới có những vấn đề mới, nên cần có tư duy mới, cái nhìn mới, khung sườn mới, từ vựng mới để giúp cho những giáo huấn nghiêm khắc của Giáo hội thêm phần hấp dẫn, thu hút, hầu làm tỏ lộ sự rực rỡ của chân lý.
Đức Thánh Cha định nghĩa rằng: ”Thân xác, thật sự –chỉ riêng một mình nó- có khả năng làm cho thấy được một cách cụ thể những điều trừu tượng, không thể trông thấy : thuộc tâm linh và Thiên Chúa. Thân xác được tạo dựng để thông chuyển vào thế giới thực tại này mầu nhiệm được dấu kín từ muôn thuở của Thiên Chúa, và nó chính là dấu hiệu đó” (2). Ngài cho rằng nếu như con người luôn ao ước tìm kiếm Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng y như vậy, Ngài cũng ao ước mạc khải chính mình cho nhân loại. Ngài khởi đầu sự mạc khải bằng cách tạo dựng nên con người, người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài. Chính thân xác con người –như sự Nhập Thể sẽ làm chứng- do đó, cũng chính là : một tính chất của Thiên Chúa mạc khải.
Bắt đầu bằng đoạn Tin Mừng khi nhóm Pharisiêu hỏi Ngài về Môsê cho phép ly dị, Chúa Giêsu trả lời :”Các ông không đọc thấy điều này sao:”Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ”, và Người đã phán :”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Họ thưa với Người:”Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ ?” Người bảo họ :”Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu” (Mt 19:3-8). Đức Thánh Cha nêu bật lên ý tưởng người nam, người nữ; cũng như Chúa Giêsu đã dùng đến hai lần “lúc ban đầu”. Ngài cho rằng đây là kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Dựa theo Thánh Kinh ngài triển khai và trình bày ba bối cảnh: cảm nghiệm cô đơn nguyên thủy, kết hợp nguyên thủy và sự trần truồng của nguyên tổ. “Trần truồng nhưng không cảm thấy xấu hổ”, theo ngài đây là chìa khóa để hiểu được kế hoạch nguyên thủy tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Thiên Chúa đóng ấn kế hoạch yêu thương của Ngài vào người nam, người nữ. Mỗi người đều mang “ý nghĩa hôn nhân thân xác”, tức có khả năng diễn đạt tình yêu, chính nhờ tình yêu đó con người trở thành quà tặng và kiện toàn chính ý nghĩa bản thể và sự hiện hữu của nó. Nhìn vào giới tính bản thân, mỗi người sẽ nghiệm thấy mình được kêu gọi, được sắp đặt để sống và để yêu thương theo hình ảnh Thiên Chúa, chỉ khi nào cho đi chính mình bấy giờ con người mới khám phá đầy đủ, thật sự về mình. Người nam, người nữ đã được tạo dựng và được cứu chuộc. Ngài cho rằng con người được Thiên Chúa ban cho lòng ao ước tình dục, như một sức mạnh kêu gọi con người phản ánh kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: cho đi chính mình.
Hôn nhân là điểm trung tâm của “Bí tích Tạo Dựng” -Bí tích hôn nhân là bí tích căn bản, nếu không có bí tích này sẽ không thể có các bí tích khác-.( Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 cho rằng rằng hôn nhân là bí tích đầu tiên đã được Thiên Chúa thiết lập, và định nghĩa của hôn nhân được ta gặp thấy nơi những trang đầu tiên của Kinh Thánh... Bí tích hôn nhân không phải do giáo hội sáng chế ra, nhưng được “cùng thiết lập” đồng thời với việc tạo dựng con người xét như là người, như là sức năng động của tình yêu trong đó người nam và người nữ gặp nhau và gặp Đấng Tạo hoá, là Đấng kêu gọi cả hai đến với tình yêu ) (3). Hôn nhân vợ chồng không chỉ là sự hiệp nhất “nên một thân xác”, nó còn biểu lộ rõ ràng tính bí tich, sự hiệp thông, cho đi và nhận lại. Do đó vợ chồng trao ban cho nhau chính mình như quà tặng chân thành, trao ban hoàn toàn, tự do, trung tín và sinh hoa trái.Trong ân ái vợ chồng, họ sử dụng “ngôn ngữ của thân xác”, diễn đạt sự kết hiệp sâu sắc không ngôn từ nào có thể làm được. Chính bằng ngôn ngữ này trong tình yêu hổ tương, họ khám phá ở nhau và ở chính mình những gì sâu xa nhất : một sự sống mới. Và mỗi lần đạt đến khoái cảm là mỗi lần giao ước hôn nhân được làm mới. Gia đình phải nhắm đến vương quốc của Chúa. Qua sinh hoạt tình dục, vợ chồng phải nhận biết rằng đây chỉ là –như được nếm trước- một phần rất nhỏ của hạnh phúc tuyệt diệu trên trời –trí khôn loài người không mường tượng ra được-, nên vợ chồng phấn đấu không ngưng nghỉ để đạt đến. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì tai họa sẽ ập đến. Gia đình là hình tượng báo trước, là mũi tên chỉ đường, nhắm đến hạnh phúc viên mãn cuối cùng là Hôn Nhân Thiên Quốc : nơi Thiên Chúa và nhân loại; Giáo Hội và Chúa Kitô kết hiệp trọn vẹn vĩnh viễn.
Ngài cũng đưa ra hai ơn gọi sống độc thân vì nước trời và sống gia đình, tuy hai ơn gọi khác nhau nhưng lại quấn vào nhau. Ơn gọi này bổ túc và làm sáng tỏ ơn gọi kia. Cùng trao ban chính mình cho kẻ khác theo cung cách khác nhau, và nhắm đến cùng một đích điểm : hôn nhân Thiên Quốc. Ngài triển khai bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã khơi động lại và chi tiết hóa kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Kêu gọi tất cả mọi người “giải phóng khỏi sự thèm muốn” Vì thèm muốn tức không có tình yêu –dù làm chồng cũng không được thèm muốn vợ mình-. Khi không có tình yêu, vợ chồng không đối xử với nhau như hai chủ thể tối cao, như ý định ban đầu của Thiên Chúa, nhưng xem nhau như đối tượng có thể xử dụng được, dùng nhau như phương tiện để thỏa mãn thú vui cho mình. Ngài trình bày về sự sống theo Thần Khí (dựa và giáo lý của Thánh Phao lô về thân xác con người), sự phục sinh của thân xác v.v... và cuối cùng là Tin Mưng cho Sự Sống : ngài trình bày một cách sống động về hôn nhân, vợ chồng. Ngài bắt đầu bằng sự giảng dạy rằng tất cả cha mẹ đều được kêu gọi để ý thức tránh nhiệm trong việc sinh dưỡng con cái. Những khúc mắc, khắc khoải của hôn nhân, gia đình đều được giải đáp một cách nhân bản ở đây, cũng như làm thế nào để sống hạnh phúc, nhờ sức mạnh nào để trở thành chứng nhân thực sự cho Chúa Kitô trong đời sống gia đình v.v...
Nhiều người tự hỏi tại sao sau hơn hai thập niên Thần Học Thân Xác ra đời -trong khi giới trẻ hôm nay nguội lạnh, thờ ơ, có khuynh hướng đánh mất đức tin-, có thể chữa lành và ngăn chận “nền văn hóa sự chết”, nó tối cần thiết cho hôn nhân, gia đình và vấn đề tính dục, nó có thể làm thay đổi não trạng con người hôm nay, bộ mặt thế giới này (ngài không ngần ngại tuyên bố rằng:”Tương lai nhân loại đi ngang qua con đường của gia đình”) như thế, nhưng hầu hết người công giáo vẫn chưa biết nó hiện hữu; hay còn rất xa lạ ! Trước hết xin trích dẫn một số ý kiến về đề tài này.
Ông George Weigel, trong cuốn “Witness to Hope” (4) cho rằng Thần Học Thân Xác là trái bom thần học nổ chậm, nó sẽ nổ gây hậu quả khốc liệt trong thiên niên kỷ thứ 3 này. Nó có sự phân nhánh của tất cả các thần học, thách đố chúng ta nghĩ về bản năng tính dục như là phương cách để nắm bắt được cốt lõi của con người, và xuyên qua đó nhận biết được ít nhiều về Thiên Chúa. Thân xác chúng ta được đóng ấn nam, nữ “lúc ban đầu” là cửa sổ để có thể nhìn thấy những ý định và bản tính của Thiên Chúa Tạo Hóa.
Giám Muc Angelo Scola, Viện trưởng Pontifical Lateran University ở Rôma, cho rằng các luận đề thần học về Thiên Chúa, Chúa Kitô, Thiên Chúa ba ngôi, ân sủng, Giáo hội, các bí tích, có thể được nhìn thấy trong một ánh sáng mới mẻ, nếu như các thần học gia biết khai thác vào chiều sâu và sự súc tích của nhân vị được bao hàm trong Thần Học Thân Xác của Gioan Phaolô 2. (5)
Học Giả Mary Healy (tác phẩm Men and Women are from Eden) cho rằng có hai lý do chính khiến người ta chưa biết đến hay còn xa lạ với Thần Học Thân Xác. Thứ nhất, ngài viết quá cô đọng, súc tích. Loi trình bày cũng hơi khác lạ, hầu hết chúng ta quen dùng lối suy luận của Châu Âu hay Hy Lạp cổ điển : trình bày điểm A hướng tới điẻm B, rồi tới điểm C v.vv... Ngài trình bày cách khác. Tư điểm A ngài xuất phát, rồi lại trở về điểm A, nhưng sau đó ngài luôn luôn đi đến một mức độ sâu xa hơn nhưng rất sát với ý tưởng Thánh KInh. Điều này đòi hỏi thời gian để có thể làm quen được. Thứ hai, trong thế hệ vừa qua, không khí bất đồng đầy dẫy trong nhiều cơ cấu Giáo hội. Nhiều Đại học, cơ sở giáo dục của địa phận, giáo xứ ít hăng hái, nhiệt tình về sự giảng dạy luân lý của Giáo hội, đặc biệt trong lãnh vực tính dục (Sexuality). Tình trạng này được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây, phần lớn nhờ vào các học viện của Gioan Phaolô 2 được thiết lập nhiều nơi trên thế giới. Ở những nơi này Thần Học Thân Xác được nghiên cứu kỹ lưỡng và đem áp dụng cho cho các vấn đề luân lý hiện nay. (6)
Ngày 25 tháng giêng năm 1999, Đức Thánh Cha đươc tiếp đón tại Vận động trường Aztec ở Mexicô City bằng biểu ngữ “Juan Pablo Magno, John Paul the Great”. (tạp chí Crisis magazine phát hành năm 1997 trang bìa cũng trình bày “John Paul the Great”). Xin mở ngoặc ở đây về chữ “Great”, tiếng Việt gọi là “Cả”. Trong Giáo hội chỉ có 2 vị Giáo hoàng được vinh dự với danh hiệu ‘Great” đó là Giáo hoàng Leo the Great (390-461) và Giáo hoàng Gregory (I) the Great (540-604). Giáo hoàng Leo the Great đã có công cứu Rôma thoát khỏi tay của vua Attila, và của người Huns. Giáo hoàng Gregory the Great có công giữ được nên văn minh thế giới không rơi vào tay một giống người man ri khác đó là sắc dân Lombards. Còn Gioan Phao lô 2 thì sao ? Chăc chắn không có các sắc dân man ri uy hiếp nhân loại như xưa. Có chăng chính ngài đã đóng góp rất lớn trong việc làm sụp đổ hệ thống Cộng Sản Đông Âu.
Thần Học Thần Xác có thể trả lời cho mọi thắc mắc của nhân loại, giải thích đầy đủ ý nghĩa của sự hiện hữu nam, nữ; ước muốn tính dục; và tình yêu hôn nhân. Từ vấn đề tôi là ai, tại sao tôi hiện hữu, tại sao tôi là người nam, người nữ, tại sao có sự dữ, làm thế nào để chiến thắng nó, tôi phải sống thế nào cho đúng, làm thế nào để đem đến cuộc sống hạnh phúc thật sự v.v... Nó đúng la, và có chức năng của “cuộc cách mạng”. Theo tôi, đối với hôn nhân và gia đình Thần học Thân xác có tác dụng củng cố, bổ sung, kiện toàn cho những gia đình đang sống tốt lành; nó có khả năng chữa lành, hàn gắn các gia đình đang bị rạn nứt, có khuynh hướng đỗ vỡ. Nó có thể giúp cho những gia đình tương lai, chuẩn bị đầy đủ, ngăn ngừa sự đổ vỡ, ly dị. Nếu kho báu mà Thiên Chúa ban cho Giáo Hội nói riêng và nhân loại nói chung này: được tìm hiểu, thực hành và quảng bá cho toàn thể thế giới. Nói cách khác mọi người, dù cho sống ơn gọi gia đình hay sống độc thân cho lợi ích nước Trời, đều ra công đóng góp để làm cho trái bom nổ chậm này phát nổ, bộ mặt thế giới sẽ thay đổi hoàn toàn. Gioan Phao lô 2 không cứu Roma thoát khỏi các sắc dân man ri, nhưng theo tôiThần Học Thân Xác của ngài cứu cả nhân loại này thoát khỏi nền văn hoá sự chết, phục hồi nền văn hoá tình thương và sự sống. Như vậy chắc chắn Gioan Phao lô không sẽ chỉ là Gioan Phao Lô Cả, mà sẽ là vị Tiến sĩ thứ 34 đầy tự hào của Giáo Hội.
Nguyện xin Thiên Chúa toàn năng, qua lời lời chuyền cầu của tôi tớ Chúa là Gioan Phao Lô 2, thương ban ơn khôn ngoan và can đảm cho những người tiếp bước trong linh đạo: 1/ Sùng kính đức Trinh Nữ Maria (Totus Tuus). 2/ Cảm nghiệm và quảng bá tư tưởng về thân xác của Gioan Phao Lô 2.
GHI CHÚ:
(1) Theo cuốn "The Splendor of Love" của Lm. Walter J. Schu, LC, (trang 52), 2003.
(2) Trang 76 (The Theology of the Body)
(3) Trích Vietcatholic News (12/04/2006)
(4) Trang 343 Witness to Hope của George Weigel
(5) Trang 343 Witness to Hope của George Weigel
(6) Trang 4 và 5 Men&Women are from Eden của Mary Healy
Ngô Suốt
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng con được vững lòng tin Chúa hơn.