Tác giả: Lm. Gabriele Amorth
Ma quỷ là một trong những thụ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nói về ma quỷ và về sự trừ quỷ mà không trước hết đề cập đến một số yếu tố căn bản về kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không nói điều gì mới mẻ, nhưng có thể trình bày một cái nhìn mới.
Tất cả chúng ta thường có quan niệm sai lầm về sáng tạo, và chúng ta hiển nhiên chấp nhận trình tự sai lầm về các sự kiện. Chúng ta tin rằng ngày xưa Thiên Chúa đã sáng tạo ra các thiên thần; rằng Ngài đặt họ trước cơn thử thách, mặc dù chúng ta không biết chắc cơn thử thách ấy như thế nào; và rằng kết cục chúng ta phân chia họ thành thiên thần và ma quỷ. Các thiên thần được thưởng lên thiên đàng, và ma quỷ bị phạt xuống hỏa ngục. Rồi chúng ta tin rằng một ngày khác Thiên Chúa đã tạo ra vũ trụ, khoáng vật, thực vật, động vật và sau cùng là loài người. Nơi vườn địa đàng, Adam Eva đã nghe lời Satan và bất tùng phục Thiên Chúa; do đó, họ đã phạm tội. Lúc đó để cứu nhân loại, Thiên Chúa đã quyết định sai con của Ngài xuống thế.
Đây không phải là điều Kinh Thánh dạy, cũng không phải giáo huấn của các giáo phụ. Nếu vậy, các thiên thần và sự sáng tạo vẫn còn xa lạ với mầu nhiệm Đức Kitô. Nếu chúng ta đọc trong Tiền Ngôn của Phúc Âm Gioan và hai bản thánh ca Kitô học mở đầu cho các bức thư Ephêsô và Côlosê, chúng ta thấy Đức Kitô là "Trưởng tử trong các thụ tạo" (Cl 1,15). Mọi sự được tạo thành nhờ Ngài và đang trông đợi Ngài.
Thần học không bàn cãi chuyện Đức Kitô được sinh ra có mắc tội Adam hay không. Đức Kitô là tâm điểm của công cuộc sáng tạo; toàn thể các thụ tạo, cả trên thiên đàng (các thiên thần) lẫn dưới trần gian (loài người) đều tìm thấy nơi Ngài cùng đích của mình. Mặt khác, chúng ta có thể khẳng định rằng, xét về tội của tổ tông chúng ta, việc Đức Kitô đến, được coi như đóng một vai trò đặc biệt: Ngài đến như Đấng Cứu Độ. Cốt lõi của hành vi của Ngài được chứa đựng trong mầu nhiệm vượt qua: nhờ Máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá, Ngài đã giao hòa mọi vật trên trời (các thiên thần), dưới đất (loài người) với Thiên Chúa. Vai trò của mỗi thụ tạo tùy thuộc vào quan niệm qui tâm Kitô (christocentric understanding).
Chúng ta không thể bỏ qua mối suy tư về Đức Trinh Nữ Maria. Nếu trưởng tử trong các thụ tạo là Ngôi lời trở thành nhục thể, thì Mẹ, Đấng rất có ý nghĩa trong cuộc Nhập thể cũng phải được Thiên Chúa nghĩ đến trước mọi thụ tạo khác. Từ đó nảy sinh mối tương quan độc đáo của Đức Maria với Chúa Ba Ngôi.
Chúng ta cũng phải lưu tâm đến ảnh hưởng của Đức Kitô trên các thiên thần và ma quỷ. Trong chuyện liên quan đến các thiên thần, một số thần học gia tin rằng các thiên thần chỉ đạt được phúc hưởng kiến Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Thánh giá. Chẳng hạn thánh Athanasiô viết rằng các thiên thần được ơn Cứu Độ nhờ Máu Chúa Kitô. Các Phúc Âm cho chúng ta nhiều bằng chứng liên quan đến ma quỷ, và chứng minh rõ ràng rằng Chúa Kitô đã đánh bại vương quốc Satan nhờ cây Thánh giá và Ngài đã thiết lập vương quốc của Thiên Chúa. Những tên quỷ nhập vào người đàn ông ở Gerasenô đã kêu lên rằng: Lạy con Thiên Chúa, chúng tôi có liên quan gì với Ngài? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi trước thời gian của chúng tôi?" (Mt 8, 29). Đây là một điểm tham khảo rõ ràng về sự kiện quyền hành của Satan đã dần dần bị Đức Kitô phá vỡ. Do đó, quyền lực của Satan vẫn hiện hữu và sẽ còn tiếp tục hiện hữu cho tới khi sự Cứu Độ chúng ta được hoàn tất" (Kh 12,10). Để biết thêm về vai trò của Đức Maria, kẻ thù của Satan ngay từ khi ơn cứu độ được loan báo, chúng ta có thể tham khảo trong tác phẩm rất hay của Cha Candido Amantini: "Il mistero di Maria" (Naples: Dehoniane, 1971).
Nếu nhìn mọi sự dưới ánh sáng qui tâm Kitô, chúng ta có thể nhìn thấy kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng tạo thành mọi sự "nhờ Đức Kitô và hướng về Đức Kitô". Và chúng ta có thể nhìn thấy những hành động của Satan, tên kẻ thù, tên cám dỗ, tên tố cáo. Vì chước cám dỗ của nó mà sự dữ, đau khổ, tội lỗi, và sự chết đã đột nhập vào thế gian. Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta có thể nhìn thấy sự khôi phục kế hoạch của Thiên Chúa. kế hoạch mà Đức Kitô đã thực hiện nhờ giá máu của Ngài.
Trong bối cảnh này, chúng ta biết được quyền lực của ma quỷ. Chúa Giêsu gọi hắn là "ông hoàng của thế gian này" (Ga 12, 31; 14,30; 16,11). Thánh Gioan khẳng định rằng "Toàn thể thế giới đều nằm dưới quyền lực ác thần" (1Ga 5, 19); qua từ "thế gian" Thánh Gioan muốn nói mọi sự đều đối nghịch với Thiên Chúa. Satan đã từng là một thần sáng láng nhất trong các thiên thần; hắn đã trở nên ác độc nhất trong các ma quỷ và làm thủ lãnh chúng. Các ma quỷ vẫn còn bị ràng buộc chặt chẽ về phẩm trật đã được ban cho chúng khi chúng còn là thiên thần: ngai thần, quản thần, lãnh thần, uy thần (Cl 1, 16). Tuy nhiên, trong khi các thiên thần, với Thánh Micae làm thủ lãnh, được ràng buộc bởi phẩm trật của tình yêu, thì ma quỷ phải sống dưới lề luật nô lệ.
Chúng ta cũng biết hành động của Đức Kitô, Đấng đã đánh tan nước Satan và thiết lập vương quốc Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao các trường hợp Đức Kitô trừ quỷ cho những người bị quỷ nhập là đặc biệt quan trọng. Khi thánh Phêrô dạy cho Cornelius về Đức Kitô, thánh nhân không nêu ra bất cứ phép lạ nào ngoài sự kiện là Chúa đã chữa lành "tất cả những người bị quỷ nhập" (Cv 10, 38). Do đó, chúng ta hiểu ra tại sao năng quyền đầu tiên mà Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ là quyền trừ quỷ (Mt 10,1). Chúng ta có thể nói tương tự cho tất cả những người tin: "Những người tin sẽ được các dấu lạ này: nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ" (Mt 16,17). Như vậy Chúa Giêsu đã chữa lành và tái lập kế hoạch thần linh đã bị tàn phá do sự bất tuân của một số thần dữ và của tổ tông chúng ta. Chúng ta cần phải làm sáng tỏ vấn đề này: sự dữ, đau khổ, sự chết, và hỏa ngục (tức là hình phạt muôn đời trong nỗi đau đớn tột cùng) không phải là những việc Thiên Chúa làm, tôi muốn triển khai điểm này. Một hôm cha Candido trừ một tên quỷ. Cho đến phút chót của một cuộc trừ quỷ, ngài quay sang phía thần dữ và nói với nó cách mỉa mai: "Cút khỏi đây ngay. Đức Chúa đã chuẩn bị cho mi một chỗ đẹp lắm, một căn nhà rực lửa!" Bấy giờ quỷ trả lời: "Ông không biết gì cả! Nào có phải Thiên Chúa là Đấng làm nên hỏa ngục đâu. Chính là chúng tôi đấy. Lúc ấy Ngài còn chưa từng nghĩ đến đó." Tương tự, vào một dịp khác, trong khi tôi đang chất vấn một tên quỷ để biết xem nó có góp phần tạo nên hỏa ngục hay không, nó đã trả lời: "Tất cả chúng tôi đều cộng tác vào."
Tính chất qui tâm Kitô trong kế hoạch sáng tạo và sự phục hồi kế hoạch đó nhờ việc cứu chuộc là nền tảng để hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa và sự tận thế. Các thiên thần và loài người đã lãnh nhận một bản tính có trí năng và sự tự do. Khi tôi nghe những người lầm lẫn giữa sự tiền định và sự quan phòng của Thiên Chúa, nói rằng Thiên Chúa đã biết trước ai sẽ được cứu chuộc và ai sẽ bị trầm luân, và do đó mọi việc chúng ta làm đều vô ích, tôi thường trả lời bằng bốn chân lý mà Kinh Thánh đã nói cho chúng ta: Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi; không ai bị tiền định phải vào hỏa ngục; Chúa Giêsu đã chịu chết cho mọi người; và mọi người đều được ban đầy đủ ân sủng để được cứu rỗi.
Tính chất qui tâm Kitô dạy chúng ta rằng chúng ta có thể được cứu rỗi chỉ nhờ danh của Ngài. Chỉ nhờ danh Ngài mà chúng ta có thể chiến thắng và tự giải thoát khỏi kẻ thù của ơn cứu độ là Satan. Vào những phút chót của những cuộc trừ quỷ quá gay go, lúc mà tôi phải đương đầu với toàn thể sức mạnh xâm lấn của ma quỷ, tôi đọc bài thánh ca Kitô học trong thư Thánh Phaolô gửi Philip (2, 6-11). Khi tôi đọc đến những từ "Sao cho mọi tạo vật trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quì gối xuống trước danh Giêsu", thì tôi quì, mọi người có mặt cũng luôn luôn quì theo, và người bị quỷ nhập cũng bị cưỡng bức phải quì. Đó là khoảnh khắc cảm động và đầy quyền uy. Tôi luôn luôn cảm thấy tất cả các cơ binh thiên thần đang bao quanh chúng tôi, cũng quì gối trước danh xưng Giêsu.
Tác giả: Lm. Gabriele AmorthVì chủ đề mà tôi đã quyết định nhắm tới trong cuốn sách này, nên tôi không thể tiếp tục những vấn đề thần học rất hay khác. Tôi sẽ chỉ đề cập đến vài điểm nêu lên như kết quả của những cuộc trừ quỷ. Một người trừ quỷ với nền tảng thần học và Kinh Thánh chắc chắn như cha Candido, người đã nói chuyện với ma quỷ trong ba mươi sáu năm, thì quá đủ tư cách để bàn về những chủ đề - như tội phản loạn của các thiên thần - mà các nhà thần học trong quá khứ đã gạt bỏ với một câu "chúng tôi không biết". Mọi sự đã được Thiên Chúa tạo thành theo một bản thiết kế hài hòa; do đó, nguyên tử bé nhỏ nhất cũng có ảnh hưởng đến mọi vật, và mỗi một cái bóng cũng làm nên một số khoảng tối trên mọi sự. Thần học sẽ giang giở và không thể hiểu được cho đến khi nó tập trung vào thế giới các thiên thần. Một khoa Kitô học mà không biết đến Satan thì kể như què quạt và sẽ không bao giờ hiểu được tầm cỡ của sự cứu chuộc.
Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục với Đức Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ. Vì Ngài và vì sự Giáng lâm (his Coming) của Ngài, mà mọi vật đã được tạo thành: trên thiên đàng (các thiên thần) và dưới đất (thế giới hữu hình, trên hết là con người). Nếu chỉ nói về Đức Kitô thì quá tuyệt vời, nhưng nếu không theo đúng từng giáo huấn và hành vi của Ngài thì chúng ta không bao giờ có thể hiểu Ngài. Kinh Thánh nói với chúng ta về vương quốc của Thiên Chúa nhưng cũng nói về vương quốc của Satan nữa. Kinh Thánh nói cho chúng ta về quyền năng của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và là Đức Chúa của vũ trụ, nhưng cũng nói về quyền lực của bóng tối. Kinh Thánh nói về những người con của Thiên Chúa và những đứa con của Satan. Không thể nào hiểu được hành vi cứu độ của Đức Kitô nếu chúng ta không biết hành vi phá hoại của Satan.
Satan đã từng là hữu thể rất hoàn hảo được bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Vì quyền hành và ưu thế Chúa ban cho nó trên các thiên thần khác được tất cả nhìn nhận, nên nó đã nghĩ rằng nó cũng có quyền thế tương tự như thế trên tất cả mọi vật mà Thiên Chúa đã tạo thành. Satan cố gắng hiểu tất cả kế hoạch sáng tạo nhưng không thể được. Bởi vì tất cả kế hoạch sáng tạo đã được nhắm về Đức Kitô. Kế hoạch của Thiên Chúa đã không thể được mạc khải hoàn toàn cho tới khi Đức Kitô đến trên trần gian. Do đó, Satan đã khởi loạn. Nó muốn tiếp tục được là tuyệt đối trên hết, là trung tâm của cuộc sáng tạo, ngay cả nếu điều đó đi ngược lại với kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Satan liên tục cố gắng thống trị thế giới. "Toàn thể thế giới nằm dưới quyền lực sự dữ" ( 1 Ga 5, 19). Bắt đầu với nguyên tổ chúng ta, nó tìm cách biến con người thành nô lệ bằng cách làm cho họ nghe theo nó và bất tuân phục Thiên Chúa. Hắn đã thành công với tổ tông chúng ta: Ađam và Evà, và hắn hy vọng sẽ tiếp tục với tất cả mọi người với sự trợ giúp của "một phần ba các thiên thần", những kẻ mà theo sách Khải huyền, đã đi theo hắn trong cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ loại bỏ các thụ tạo của Ngài. Do đó, mặc dù đổ vỡ với Thiên Chúa, Satan và các thiên thần của nó vẫn còn quyền lực và đẳng cấp (ngai thần, quản thần, lãnh thần, uy thần...) ngay cả khi chúng dùng quyền lực vào những mục đích xấu xa. Thánh Augustinô đã không phóng đại quá khi tuyên bố rằng nếu Thiên Chúa để cho Satan được tự do thì chẳng ai sẽ có thể sống sót. Bởi vì Satan không thể tiêu diệt chúng ta, nên hắn cố gắng "lôi kéo chúng ta đi theo hắn để chống lại Thiên Chúa, hệt như hắn đã chống đối Ngài".
Chân lý của sự cứu rỗi là thế này: Chúa Giêsu đã đến "phá hủy các mưu đồ của ma quỷ" (1Ga 3,8), để giải phóng con người khỏi kiếp nô lệ cho Satan, và thiết lập vương quốc Thiên Chúa sau khi đã phá hủy nước của Satan. Tuy nhiên, giữa lần giáng lâm thứ nhất của Đức Kitô và cuộc Quang lâm (lần giáng lâm thứ hai, lần đến khải thắng của Đức Kitô như vị thẩm phán), ma quỷ cố gắng chiêu dụ nhiều người hết sức có thể về phe hắn. Đó là một cuộc chiến mà hắn tiến hành với nỗi tuyệt vọng của một kẻ biết mình đã bị đánh bại, vì biết rằng "thời giờ của hắn còn rất ngắn" (Kh 12,12). Do đó, Thánh Phaolô đã nói rất thật với chúng ta rang "chúng ta đang chiến đấu không phải với loài xác thịt và máu huyết, nhưng là chống lại với các vương tôn, quyền bính, với bá chủ thế gian này, với bọn tà thần gian ác chốn không trung" (Ep 6,12).
Kinh Thánh cho chúng ta biết các thiên thần và ma quỷ (tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến Satan) là những thụ tạo thiêng liêng nhưng cũng là những cá thể được phú ban cho trí tuệ, ý chí, tự do và sáng kiến. Các thần học gia hiện đại, họ đồng hóa Satan với ý niệm trừu tượng về sự dữ là hoàn toàn sai lầm. Quan niệm của họ thật là dị giáo; tức là rõ ràng trái với Kinh Thánh, thánh truyền và quyền giáo huấn của Giáo Hội. Trong quá khứ, sự thật về Satan chưa bao giờ bị hoài nghi; do đó, không có những định tín về phương diện này trừ ra tuyên bố sau đây của Công Đồng Lateran IV: "Ác quỷ (tức là Satan) và các ma quỷ khác đã được Thiên Chúa tạo dựng cách tốt lành; nhưng chúng đã trở nên ác độc tại lỗi lầm riêng của chúng." Bất cứ ai chối Satan thì cũng chối tội lỗi và không còn hiểu gì về những hành động của Đức Kitô.
Chúng ta hãy làm sáng tỏ điều này: Chúa Giêsu đã đánh bại Satan nhờ sự hy sinh của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng đã đánh bại Satan trước khi Ngài chịu chết, nhờ những giáo huấn của Ngài: "Nếu chỉ nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì ắt hẳn nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi"(Lc 11,20). Chúa Giêsu là Đấng mạnh mẽ nhất, Ngài đã trói buộc Satan (Mc 3, 27), đã hạ bệ hắn và tàn phá vương quốc của hắn, vương quốc ấy đã đến hồi kết thúc (Mc 3, 26). Chúa Giêsu trước hết trao quyền trừ quỷ cho các tông đồ, rồi mở rộng ra cho bảy mươi hai môn đệ, và cuối cùng Ngài đã ban cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Sách Tông đồ công vụ cho chúng ta thấy sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ tiếp tục trừ quỷ, và tất cả các Kitô hữu cũng đã làm như thế theo gương các ông. Các thánh giáo phụ sớm nhất, như thánh Justin, thánh Irenê, đã bộc lộ rõ rằng tư tưởng Kitô giáo về ma quỷ và về quyền năng xua trù nó. Các giáo phụ khác, đặc biệt là Tertullianô và Ôrigênê, cũng đồng quan điểm. Chỉ cần bốn tác giả này cũng đủ để bác bẻ nhiều thần học gia hiện đại là những người cố tình không tin có ma quỷ hoặc hoàn toàn phớt lờ chúng.
Công Đồng Vaticanô II mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta về giáo huấn vĩnh cửu của Giáo Hội: "Trận chiến sinh tử chống lại các quyền lực bóng tối đang xâm lấn toàn thể lịch sử loài người đã được giao tranh ngay từ khởi thủy thế giới" (Gaudium et Spes, no 37). "Mặc dù con người đã được Thiên Chúa tạo dựng trong trạng thái thánh thiện, từ lúc bình minh của lịch sử, loài người đã lạm dụng tự do của mình, nghe theo sự xúi giục của thần dữ. Con người đã tự mình chống lại Thiên Chúa và tìm kiếm sự viên mãn bên ngoài Ngài. Mặc dù con người biết Thiên Chúa nhưng họ đã không tôn vinh Ngài như Thiên Chúa, trái lại tâm hồn mê muội của họ đã ra tối tăm, và họ đã phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Đấng tạo hóa" (số 13). "Ngài đã sai con của Ngài mặc lấy xác phàm chúng ta, để nhờ Chúa Con, Ngài giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và Satan" (An Gentes 3). Những ai chối bỏ sự hiện hữu và những hoạt động của Satan thì làm sao có thể hiểu được những chiến công của Đức Kitô? Làm thế nào họ có thể hiểu được giá trị cái chết cứu chuộc của Đức Kitô? Dựa trên căn bản Kinh Thánh, Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng "[Đức Kitô], nhờ cái chết và sự phục sinh của Ngài, đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Satan" (Sacrosanctum Concilium, số 6). Và "[Đức Kitô] đã chịu tử giá và sống lại để bẻ gãy xiềng xích của ác thần" (Gaudium et Spes, số 2).
Bị Đức Kitô đánh bại, Satan quay ra chống lại các môn đệ của Ngài. Cuộc chiến cam go chống lại ác thần "tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán" (số 37). Trong thời gian này, mỗi người phải tỉnh thức chiến đấu vì cuộc sống trên thế gian này là một cuộc thử thách của lòng trung thành với Thiên Chúa. "Vậy chúng ta phải phấn đấu để làm vui lòng Chúa trong mọi sự" (x. 2Cr 5,9). Chúng ta mặc áo giáp của Thiên Chúa để có thể đương đầu với những mưu chước ma quỷ và đứng vững được trong thời buổi gian ác vì trước khi chúng ta được đồng trị với Đức Kitô vinh quang, chúng ta hết thảy sẽ phải ra trình diện trước tòa án Đức Kitô, sao cho mỗi người có thể lãnh nhận những gì họ đã chiến thắng nhờ thể xác, tùy theo việc họ làm tốt hoặc xấu (2 Cr 5,10)" (Lumen Gentium số 48).
Tuy cuộc chiến chống Satan này liên quan đến mọi người và mọi thời, nhưng chắc chắn quyền lực của Satan sẽ càng ghê gớm hơn khi mà sự lan tràn tội lỗi nơi các cộng đồng càng trở nên rõ rệt hơn. Chẳng hạn, khi tôi thấy sự suy đồi của đế quốc Rô ma, tôi có thể thấy sự tan rã tinh thần của một giai đoạn lịch sử. Bây giờ chúng ta cũng đang ở cùng một cấp độ suy đồi tương tự, một phần là do hậu quả của sự lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng (những phương tiện ấy tự chúng không phải là xấu) và một phần do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa hưởng thụ phương tây, vốn đang đầu độc xã hội chúng ta.
Tôi tin rằng Đức Thánh Cha Lêô XIII, trong một thị kiến sẽ được trình bày chi tiết ở phần phụ lục chương này, đã nhận được một lời cảnh báo tiên tri liên quan đến cuộc tấn công quỷ quái này vào thời đại chúng ta. Ma quỷ làm thế nào để đối đầu với Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc chúng ta? Bằng cách kêu gọi người ta thờ chính nó thay vì tôn thờ Chúa và bằng cách bắt chước dựng nên các tổ chức giống như của giáo hội. Do đó, nó là tên phản Kitô và phản Giáo hội. Satan dùng thần tượng tính dục, làm hạ giá thân xác con người xuống thành một dụng cụ của tội lỗi, chống lại sự Nhập thể của Ngôi Lời, Đấng đã hóa thân làm người để cứu chuộc con người. Satan dùng giáo hội của nó, sự tế tự nó, những người sùng mộ nó (thường thường được hiến cho nó qua việc uống máu ăn thề), những kẻ tôn thờ nó, những người chạy theo những lời nó hứa, để bắt chước sự tôn thờ dành cho Thiên Chúa. Hệt như Đức Kitô đã ban cho các tông đồ và các môn đệ của các ngài những sức mạnh đặc biệt để làm ích cho thể xác và linh hồn, Satan cũng tặng sức mạnh đặc biệt như vậy cho các kẻ theo nó nhưng để làm hại thể xác lẫn linh hồn họ. Chúng ta sẽ khảo sát những sức mạnh đặc biệt này qua việc giải thích về ma thuật.
Tôi sẽ lại lưu ý thêm nữa về chủ đề này. Thật là sai lầm khi từ chối sự hiện hữu của Satan, thì cũng sai lầm không kém khi chấp nhận ý kiến đang thịnh hành rằng có những hữu thể thiêng liêng không được đề cập đến trong Kinh Thánh. Đó là những phát minh của những nhà thông linh (spiritists), của những người chuyên theo đuổi sự huyền bí, của những người ủng hộ thuyết đầu thai (reincarnation), hoặc của những người tin vào các "cô hồn" (wandering souls). Không có thần lành nào ngoài các thiên thần và cũng không có thần dữ nào ngoài các ma quỷ. Hai Công Đồng của Giáo Hội (Lyon và Florence) đã nói cho chúng ta rằng linh hồn những người chết đi thẳng vào thiên đàng hoặc vào hỏa ngục hay luyện ngục. Hồn người chết hiện diện trong buổi lên đồng hoặc hồn người chết nhập vào người sống để hành hạ họ không là ai khác ngoài ma quỷ. Rất hiếm khi Thiên Chúa cho phép linh hồn trở về trần gian, nhưng chúng tôi nhận thấy rằng chủ đề này vẫn hoàn toàn là những điều chưa biết (unknowns). Cha La Grua cố gắng cắt nghĩa một số kinh nghiệm của ngài với những người bị quỷ nhập, nhưng tôi phải nói tóm gọn lại rằng đây là một vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm nữa, và tôi sẽ trình bày trong một tác phẩm khác.
Một số người có khả năng kỳ dị của quỷ để cám dỗ người ta và thậm chí có thể chiếm hữu thể xác (nhưng không bao giờ có thể chiếm được linh hồn trù khi người ta tự do trao linh hồn cho chúng) qua việc ám ảnh và áp bức. Chúng ta nên nhớ lại điều đã được viết trong sách Khải Huyền (12, 7...): "Xảy ra trên trời có chiến tranh dữ dội, Micae và các chư thần của người tranh chiến cùng con rồng, con rồng cùng các thần của nó chiến đấu lại. Nhưng không thắng nổi, mà chỗ của chúng cũng chẳng còn thấy trên trời nữa. Con rồng lớn bị ném xuống, đó là con cựu xà, cũng gọi là ma quỷ và Satan. Chính nó đã lừa dối cả hoàn cầu, đã bị quăng xuống đất, cả những thần của nó cũng đều bị quăng xuống... sau khi con rồng thấy rằng nó bị đẩy xuống đất, nó liền khủng bố người đàn bà kia, người mặc áo mặt trời, và từ nơi người ấy Chúa Giêsu đã được sinh ra (hiển nhiên là chúng ta nói về Đức Trinh Nữ rất thánh). Khi con rồng nhận ra những cố gắng của nó bị thất bại, "nó liền đi giao chiến cùng con cái bà là những kẻ giữ giới răn Thiên Chúa và có dấu chứng Đức Giêsu Kitô."
Vào ngày 24.5. 1987, khi viếng đền thánh kính Tổng Thần Micae, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ là bổn phận chính của Đức Tổng Thần Micae, vẫn còn kéo dài đến ngày nay, bởi vì ma quỷ vẫn còn tồn tại và hoạt động trên thế giới. Ngày nay sự dữ vẫn bao vây chúng ta, những sự tháo thứ đang gây tai họa cho xã hội chúng ta, sự đổ vỡ và mâu thuẫn nơi con người không chỉ là hậu quả của tội nguyên tổ, nhưng cũng còn là hậu quả của hành vi đen tối tràn ngập của Satan nữa."
Câu cuối cùng rõ ràng trích dẫn từ lời Thiên Chúa tuyên phạt con rắn trong sách Sáng thế ký: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người Nữ; người miêu duệ ấy sẽ đạp nát đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân Người" (Stk 3,15). Satan không ở trong hỏa ngục sao? Cuộc chiến giữa các thiên thần đã xảy ra khi nào? Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi này trừ phi chúng ta nhớ rằng hỏa ngục là một trạng thái của trí khôn hơn là một nơi chốn. Nơi chốn và thời gian là những ý niệm khác đối với loài thần linh.
Sách Khải huyền cho chúng ta thấy rằng ma quỷ đã bị ném xuống đất; do đó, bản án tối chung của chúng vẫn chưa xảy ra, cho dù là không thể vãn hồi. Điều này có nghĩa là chúng vẫn có những quyền hành mà Thiên Chúa đã ban cho chúng, dù chỉ "trong một thời gian ngắn". Đó là lý do tại sao chúng đã hỏi Chúa Giêsu: "Sao Ngài lại đến hành hạ chúng tôi trước thời gian?" (Mt 8,29). Đức Kitô là thẩm phán duy nhất; Ngài sẽ tập họp Thân Thể Mầu nhiệm của Ngài lại với Ngài. Do đó, đây là cách chúng ta cắt nghĩa lời Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côrinthô: "Anh em lại không biết chúng ta sẽ xét xử các thiên thần ư? (1Cr 6,3). Khi "cơ binh" ma quỷ nhập vào một người ở Gêrasa nài xin Chúa Giêsu "xin đừng phạt chúng xuống vực thảm" (Lc 8, 31-32), chúng đã tìm cách giữ lại quyền lực của chúng. Đối với một tên quỷ, việc lìa khỏi thân xác của một người và chìm vào hỏa ngục là một bản án tử không thể vãn hồi; đó là lý do tại sao ma quỷ chống lại điều đó đến cùng. Tuy nhiên, sự đau khổ đời đời của nó sẽ gia tăng cân xứng với những đau khổ nó gieo rắc trên trần gian. Chính thánh Phêrô đã nói cho chúng ta rằng ma quỷ chưa bị kết án dứt điểm: "Thiên Chúa không dung thứ những thiên thần phạm pháp nhưng tống chúng vào hỏa ngục, và trói buộc chúng nơi tối tăm để đợi ngày phán xét" (2Pr 2, 4). Vinh quang của các thiên thần cũng vậy, sẽ được gia tăng tùy theo những việc thiện các ngài làm; do đó, rất nên cầu xin các ngài giúp đỡ.
Ma quỷ có thể gây tổn hại gì cho người sống? Có quá ít sách vở nói về chủ đề này và thiếu từ ngữ thông dụng. Bây giờ tôi sẽ cố gắng định nghĩa các từ mà tôi sử dụng trong sách này.
Hoạt động thông thường. Đây là việc "cám dỗ", đó là hoạt động thông thường nhất của ma quỷ, và nó trực tiếp chống lại hết mọi người. Khi Chúa Giêsu cho phép Satan cám dỗ Ngài, Ngài đã chấp nhận thân phận nhân loại của chúng ta. Tôi không có ý nói đến loại nỗ lực thông thường này của ma quỷ, vì mục đích của sách này là làm nổi bật "hoạt động ngoại thường" của Satan, chỉ xảy ra nếu Chúa cho phép.
Loại thứ hai này có thể mang sáu hình thức khác nhau:
1. Đau đớn thể lý bên ngoài do Satan gây ra. Chúng ta biết về điều này từ nhiều cuộc đời của các thánh. Chúng ta biết Thánh Phaolô Thánh giá, cha sở họ Ars, cha Padre Pio, và nhiều vị thánh khác đã bị ma quỷ đánh đập. Hình thức hành hạ bề ngoài này không ảnh hưởng đến linh hồn; do đó, với loại này không bao giờ cần đến việc trừ quỷ, chỉ cần cầu nguyện. Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh đến những loại hành động khác trực tiếp liên quan đến các nhà trừ quỷ.
2. Quỷ nhập (Demonic possession). Điều này xảy ra khi Satan hoàn toàn chiếm trọn thể xác (không chiếm linh hồn); nó nói và hành động mà nạn nhân không biết hoặc không đồng ý, do đó nạn nhân không mắc lỗi luân lý. Đó là hình thức trầm trọng và đáng chú ý nhất trong các tai ách do ma quỷ gây nên, và nó đã thu hút sự chú ý của các nhà làm phim ảnh như bộ phim The Exorcist. Theo cuốn nghi thức trừ quỷ, một số dấu hiệu quỷ nhập bao gồm: nói các thứ ngôn ngữ, có sức mạnh ngoại thường, và tiết lộ điều chưa biết. Người đàn ông ở Gerasa là một thí dụ rõ ràng bị quỷ nhập trong Phúc Âm. Ấn định một "kiểu mẫu cố định cho hiện tượng quỷ nhập là một sai lầm nghiêm trọng; tai họa quỷ nhập đưa tới hàng loạt những triệu chứng và sự ác liệt. Chẳng hạn, tôi đã trừ quỷ cho hai người bị quỷ nhập hoàn toàn, họ hoàn toàn thinh lặng và bất động trong suốt thời gian trừ quỷ. Tôi có thể kể ra nhiều thí dụ khác và nhiều triệu chứng khác nhau.
3. Quỷ hành (Diabolical Oppression). Nhiều triệu chứng từ rất nặng cho đến cơn bệnh nhẹ. Nạn nhân không bị ám, không mất ý thức, không nói năng lảm nhảm. Kinh Thánh cho chúng ta nhiều thí dụ về sự quỷ hành, trong đó có trường hợp ông Gióp. Ông ta không bị quỷ nhập, nhưng bị mất hết con cái, của cải và sức khỏe. Người đàn bà trắc nết và người đàn ông vừa câm vừa điếc được Chúa Giêsu chữa lành không phải những người bị quỷ nhập hoàn toàn, nhưng có một sự hiện diện ma quỷ gây nên sự phiền phức thể lý. Thánh Phaolô chắc chắn không bị quỷ nhập, nhưng ngài đã bị một cơn hành hạ của ma quỷ, khiến ngài phải sầu muộn: "Lại sợ rằng sự cao siêu về các ơn mạc khải tâng bốc tôi, nên Chúa đã cho tôi cái gai xác thịt - tức là sứ giả của ma quỷ để soi mói tôi." (2Cr 12,7). Như vậy, không còn hồ nghi gì về nguồn gốc xấu xa của những cơn sầu khổ.
Trong khi ngày nay tương đối hiếm có trường hợp bị quỷ nhập, chúng tôi lại phải bù đầu với rất đông đảo những người bị ma quỷ đánh vào sức khỏe, nghề nghiệp, hoặc những mối quan hệ. Chúng tôi cũng cần phải nói rõ việc chẩn đoán và chữa lành một trường hợp bị hành liên quan đến bệnh tật thì không dễ hơn chút nào so với việc chẩn đoán và chữa cho một người bị quỷ nhập toàn phần. Mức độ nghiêm trọng có thể khác nhau, nhưng sự khó khăn trong việc chẩn đoán và số thời gian dành để chữa lành thì cũng như nhau.
4. Quỷ ám (Diabolic obsession). Triệu chứng bao gồm những sự lên cơn đột ngột, trong lúc đó tư tưởng bị ám ảnh, đôi khi trí khôn ra đờ đẫn, và dĩ nhiên là nạn nhân không thể tự giải thoát cho mình được. Do đó, người bị quỷ ám thường xuyên phải sống trong tình trạng quằn quại tuyệt vọng, và cứ chực tự tử. Hầu như sự quỷ ám luôn ảnh hưởng đến những giấc mộng. Một số người sẽ cho đây là những trường hợp bị bệnh tâm thần cần có sự giúp đỡ của các bác sỹ tâm thần hay các nhà tâm lý học. Người ta có thể nói tương tự như thế về tất cả các hình thức của hiện tượng quỷ ám. Tuy nhiên, một số triệu chứng khác hẳn với những cơn bệnh đã được biết đến cho nên chắc chắn là có nguồn gốc do ma quỷ. Chỉ có người chuyên môn và có cặp mắt tinh tường mới có thể xác định được những dị biệt chủ yếu.
5. Quỷ phá (Diabolic infestation). Những sự phá phách ảnh hưởng đến nhà cửa, đồ vật, hoặc súc vật. Sách này sẽ chỉ nêu lên chủ đề. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng tôi sẽ không bao giờ dùng từ này khi nói về con người. Tôi sẽ luôn luôn nói về hiện tượng quỷ nhập, quỷ hành và quỷ ám.
6. Quỷ điều khiển (Diabolical subjugation, or dependence). Người ta rơi vào hình thức xấu xa này khi họ tự nguyện thần phục Satan. Hai hình thức thông thường nhất của sự tùy thuộc này là ký máu ăn thề với ma quỷ và hiến mình cho Satan.
Làm thế nào để chúng ta có thể giữ mình khỏi tất cả những sự xấu xa này? Sự giải thích chặt chế của sách Nghi Thức chỉ hạn chế hướng dẫn cho những trường hợp bị quỷ nhập thực sự. Tuy nhiên, như tôi đã nói trước, sách Nghi Thức hiện nay không đáp ứng được nhiều trường hợp để nhà trừ quỷ chẩn đoán một ảnh hưởng tai ác. Trong tất cả các trường hợp mà không phải quỷ nhập, những biện pháp thông dụng để có được ân sủng là đủ. Những biện pháp đó là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, làm phước bố thí, sống cuộc sống Kitô hữu, tha thứ cho kẻ xúc phạm, và cầu xin sự trợ giúp của Chúa, Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần. Bây giờ tôi sẽ nói một ít lời về các thiên thần. Tôi vui mừng chấm dứt chương nói về ma quỷ kẻ thù của Đức Kitô, bằng cách nói về các thiên thần. Các ngài là những đồng minh vĩ đại của chúng ta. Chúng ta mắc nợ các ngài nhiều lắm và thật là sai lầm vì chúng ta hiếm khi nhắc đến các ngài. Mỗi người trong chúng ta đều có một thiên thần bản mệnh, một người bạn trung thành nhất trong các người bạn, đi theo chúng ta hai mươi bốn giờ mỗi ngày từ khi hoài thai cho tới khi qua đời. Ngài không ngừng che chở chúng ta, cả thân xác lẫn linh hồn, trong khi chúng ta chẳng bao giờ nghĩ tới ngài. Chúng ta cũng biết rằng mỗi quốc gia cũng có một thiên thần đặc biệt canh giữ, và có lẽ mỗi cộng đồng hay mỗi gia đình cũng có một vị, mặc dù hai trường hợp sau chúng ta không chắc chắn cho lắm. Tuy nhiên chúng ta biết rằng các thiên thần thì rất đông, và họ ao ước giúp đỡ chúng ta còn hơn cả Satan ước muốn phá hoại chúng ta.
Kinh Thánh thường nói cho chúng ta về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho các thiên thần của Ngài. Chúng ta biết tên của vị thủ lãnh các thiên thần là Đức Micae. Giữa các thiên thần có một đẳng cấp dựa trên tình yêu, được hướng dẫn bởi trí tuệ thần linh "Trong Ý chí của trí tuệ thần linh đó mà chúng ta tìm được bình an", như thi sĩ Dante nói. Chúng ta cũng biết tên của hai đức tổng thần khác: Gabriel và Raphael. Ngụy thư thêm tên vị tổng thần thứ bốn là Uriel. Kinh Thánh chia các thiên thần thành chín phẩm: các quản thần (dominions), các quyền thần (powers), các ngai thần (thrones), các lãnh thần (principalities), các dũng thần (virtues), các thiên thần (angels), các tổng thần (archangels), cuối cùng là các cherubim và seraphim (luyến thần). Người tín hữu nào sống trong sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi và chắc chắn có sự sống ấy trong mình, thì cũng biết rằng mình có một người Mẹ, người Mẹ riêng của Thiên Chúa, không ngừng trợ giúp mình. Người ấy biết rằng mình luôn luôn có thể trông cậy vào sự trợ giúp của các thiên thần và các thánh; do đó, làm thế nào người ấy cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi, hoặc bị quỷ hành hạ được? Trong đời sống của người tín hữu vẫn có đau khổ, vì đó là con đường Thánh giá cứu độ chúng ta, nhưng không có chỗ cho thất vọng. Người tín hữu luôn luôn sẵn sàng làm chứng cho mọi người về niềm hy vọng đang nâng đỡ họ (x. 1Pr 3, 15).
Hiển nhiên là người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và phải sợ tội. Đây là nền móng sức mạnh của chúng ta như Thánh Gioan đã nói: "Chúng ta biết rằng phàm ai được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra gìn giữ người ấy, và ác thần không đụng đến người ấy được." (1Ga 5, 18). Nếu đôi khi sự yếu đuối làm chúng ta sa ngã, chúng ta phải lập tức chỗi dậy, cầu xin lòng thương xót Chúa: xám hối và xưng tội.
PHỤ CHƯƠNG 1
Thị kiến của Đức Thánh Cha Lêô XIII về ma quỷ.
Nhiều người còn nhớ rằng trước những cải cách của Công Đồng Vaticanô II, vào cuối mỗi Thánh Lễ, các người tham dự lễ quì gối đọc một kinh kính Đức Mẹ, và một kinh kính Đức Tổng thần Micae. Đây là lời kinh tuyệt vời, đem lại nhiều lợi ích cho những người đọc.
Lạy Đức Thánh Micae, Tổng lãnh thiên thần, xin cứu giúp chúng con trong cơn giao chiến, hãy phù hộ chúng con đánh phá mưu thâm quỷ giữ, chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó, cùng xin nguyên soái cơ binh trên trời lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỷ dữ đang dong duổi khắp thế làm hại các linh hồn, bắt nó xuống giam cầm nơi hoả ngục. A men.
Nguồn gốc kinh này ra sao? Xin trích đoạn đăng trong tạp chí Ephemerides Liturgicae xuất bản năm 1995 trên trang 58-59:
Cha Dominico Pechenino viết: "Tôi không nhớ chính xác năm nào. Một buổi sáng Đức Thánh Cha Lêô XIII đã dâng Thánh Lễ như thường lệ, vào lúc ngài đang cám ơn rước lễ, đột nhiên chúng tôi thấy ngài ngẩng đầu lên và nhìn chăm chú vào một cái gì đó ở trên phía đầu chỗ chủ tế ngồi. Ngài nhìn một cách hết sức chăm chú và không chớp mắt. Thái độ của ngài hết sức kinh sợ, sắc diện cũng thay đổi nhanh chóng. Có một cái gì đó bất thường đang xảy đến cho ngài.
"Cuối cùng, dường như ngài tỉnh lại, một cách nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, ngài chống tay đứng dậy đi về phòng riêng. Người trợ tá của ngài hết sức lo lắng ân cần hỏi ngài: 'Thưa Cha, cha không được khỏe? Cha có cần gì không?' Ngài trả lời: 'không, không cần gì hết. ' Khoảng nửa giờ sau, ngài gọi Thư ký Thánh bộ phụng tự đến, trao cho một tờ giấy và truyền phải in ra gửi cho các giám mục khắp thế giới. Giấy gì vậy? Đó là bản kinh mà chúng ta vẫn đọc cuối mỗi Thánh Lễ. Kinh cầu xin Đức Mẹ và lời tha thiết xin tổng lãnh thiên thần cầu xin Thiên Chúa bắt Satan giam vào hỏa ngục. "
Đức Thánh Cha Lêô XIII dạy phải quì gối khi đọc những kinh này. Điều chúng tôi vừa tường thuật cũng đã được đăng trên tạp chí La settinmana del clero, ngày 30.3.1947, nhưng không nói rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng kinh đã thực sự được gửi cho các giám mục vào năm 1886, trong những hoàn cảnh bất thường. Một nhân chứng đáng tin cậy, đức Hồng Y Nasalli Rocca, trong một lá thư mục vụ gửi cho giáo phận Bologna vào mùa chay năm 1946, đã viết: "Đức Thánh Cha Lêô XIII đã đích thân viết kinh này. Câu (các thần dữ đang dong duổi khắp thế làm hại các linh hồn, có một sự cắt nghĩa lịch sử được lặp lại nhiều lần bởi Đức cha Rinaldo Angeli, thư ký riêng của ngài. Đức Lêô XIII thực sự đã nhìn thấy qua một thị kiến, ma quỷ đang tụ tập trên kinh thành vĩnh cửu (Roma). Bản kinh mà ngài yêu cầu toàn thể Giáo Hội đọc là kết quả của kinh nghiệm này. Ngài đọc bản kinh đó với một cung giọng rất mạnh mẽ dõng dạc: chúng tôi nghe thấy nhiều lần ở đền thánh Vatican. Đức Lêô XIII cũng đích thân viết một kinh trừ quỷ được in trong sách lễ Roma (ấn bản 1954, XII, C.III, p. 863 và tiếp...). ngài khuyến khích các giám mục linh mục đọc kinh trừ quỷ ấy thường xuyên trong các giáo phận và giáo xứ các ngài. Chính ngài cũng đọc kinh ấy hằng ngày.
Một yếu tố khác chứng minh giá trị của những kinh mà chúng ta vẫn đọc sau mỗi Thánh Lễ. Đức Thánh Cha Piô XI đã thêm vào một chủ ý đặc biệt cầu cho nước Nga trở lại (diễn từ ngày 39.6.1930). Trong bài diễn từ này, sau khi nhắc nhở mọi người cầu nguyện cho nước Nga, và cho cuộc bách hại đạo tại nước Nga, ngài đã kết thúc với những lời sau: "Chúng ta hãy đọc những kinh mà vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi, Đức Lêô XIII, đã hướng dẫn tất cả các linh mục và tín hữu cầu nguyện vào cuối Thánh Lễ, thêm ý chỉ cầu xin cho nước Nga trở lại. Tất cả các giám mục và các linh mục hãy thông báo cho mọi người có mặt trong Thánh Lễ, và hãy thường xuyên nhắc nhở họ" (Civilltà cattolica, 1930, vol. 3)
Chúng ta thấy đó, các Đức Thánh Cha thường xuyên nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện kinh khủng của Satan ở giữa chúng ta. Hơn nữa, lời khuyến cáo của Đức Thánh Cha Pio XI nhấn mạnh vào cốt lõi của những học thuyết sai lạc đang tràn ngập thế kỷ chúng ta và vẫn còn tiếp tục đầu độc cuộc sống không chỉ của các thần học gia mà còn cả dân chúng nữa. Thật ra những hướng dẫn của Đức Thánh Cha Pio XI không được mấy ai tuân theo là do lỗi của những người có trách nhiệm thực hiện. Những hướng dẫn này đã được ban ra trước khi những cuộc hiện ra ở Fatima được toàn thế giới biết đến, và chúng tách biệt hẳn - nhưng vẫn phù hợp với nhau - khỏi những sự kiện đặc sủng mà Chúa dùng để ban phước cho nhân loại qua các cuộc hiện ra.
Những quà tặng của Satan
Satan có quyền ban một số năng lực cho kẻ theo nó. Vì ma quỷ thực sự là kẻ dối trá, đồng thời những người lãnh nhận những quyền lực này cũng không biết hoặc không muốn biết nguồn gốc của chúng; tất cả họ đều sung sướng lãnh nhận những món quà tặng miễn phí này. Có người được tặng cho khả năng thấu thị [bọn đồng bóng]. Người khác có thể ngồi trước tờ giấy trắng cầm bút viết từ trang này sang trang khác những thông điệp tự phát. Những người khác nữa cảm thấy mình có thể ở hai nơi và một phần con người của họ có thể bước vào một biệt thự cho dù ở cách xa. Điều rất thông dụng cho nhiều người là nghe thấy "một tiếng nói lúc thì gợi lên những lời kinh, lúc khác lại gợi lên bất kỳ tiếng nào trừ lời kinh.
Tôi có thể liệt kê hàng loạt. Đâu là nguồn gốc của những tặng ân này? Đó là những đặc sủng của Chúa Thánh Linh chăng? Hay là của Satan? Những điều này chỉ là những tặng ân siêu hình chăng? Để có thể phân biệt được sự thật, chúng ta phải quay về với những người có kinh nghiệm về vấn đề này. Khi thánh Phaolô ở Thyatira, ngài gặp một người tớ gái có khả năng thấu thị và do đó cô ta làm lợi nhiều cho các chủ của cô. Đây là một quà tặng phát xuất từ Satan, và nó biến mất ngay sau khi Thánh Phaolô trừ khử thần dữ (Cv 16, 16- 18).
Tôi sẽ cho một thí dụ về một nhân chứng tự xưng là "Eramus of Bari", như đã được đăng trong tạp chí Rinnovamento dello Spirito Santo tháng Chín 1987, những ghi chú trong ngoặc là của riêng tôi.
Cách đây vài năm, tôi đã trải nghiệm trò chơi gương (glass), mà không biết rằng đó là một hình thức thông linh (spiritism). Những thông điệp tôi nhận được trong trò chơi này nói về hòa bình và về tình huynh đệ [lưu ý ma quỷ có thể ẩn mình dưới vẻ bề ngoài của những việc thiện như thế nào]. Ít lâu sau, trong khi tôi ở Lộ Đức đang lúc tôi thi hành tác vụ của tôi, tôi đã được ban cho những khả năng lạ lùng [đây cũng là một điểm đáng lưu ý; không chỗ nào ma quỷ không len lỏi vào được, bất kể nơi thánh và trong vấn đề thánh thiêng].
Khoa siêu tâm lý định nghĩa những khả năng mà tôi được ban cho là siêu cảm giác, tức là, thấu thị, đọc được tư tưởng, chẩn đoán y khoa, đọc được tâm hồn và sinh mệnh của những người sống và người chết, và các năng lực khác. Vài tháng sau tôi nhận được những tài năng khác: khả năng cất cơn đau cho bệnh nhân chỉ bằng cách đặt tay. Tôi có thể cất hẳn hoặc giảm bớt bất cứ thứ đau đớn nào; đây có thể là "Thần linh liệu pháp " (prana therapy) chăng?
Với tất cả những năng lực này, tôi dễ dàng tiếp xúc với người ta, nhưng sau khi gặp nhau, họ liền bỏ đi, họ bị xốc với cuộc trò chuyện với tôi và họ bị bối rối sâu xa bởi vì tôi có thể nhìn thấy linh hồn họ, và lên án tội mà họ đã phạm. Tuy nhiên, khi đọc lời Chúa, tôi nhận ra rằng cuộc sống của tôi không có gì thay đổi. Tôi vẫn tiếp tục mau nổi giận, chậm tha thứ, dễ phẫn uất, hơi tí là khó chịu. Tôi sợ thánh giá, sợ tương lai, sợ chết.
Sau một thời gian dài tìm kiếm câu trả lời và trải nghiệm nhiều đau khổ, Chúa Giêsu đã hướng dẫn tôi đến với phong trào canh tân, ở đó, tôi tìm được những người anh em, họ cầu nguyện cho tôi, và chúng tôi nhận ra rằng điều xảy ra cho tôi là do quỷ chứ không phải do Thiên Chúa. Tôi có thể làm chứng rằng tôi đã nhìn thấy quyền năng của Danh Chúa Giêsu. Tôi đã nhận ra và đã xưng các tội đã qua, tôi dứt bỏ mọi hình thức tối tăm. Những quyền lực này đã chấm dứt và Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi; tôi cám ơn Ngài về điều đó.
Chúng ta đừng quên rằng Kinh Thánh cho chúng ta thấy những thí dụ về những việc phi thường được thực hiện do Thiên Chúa và do ma quỷ. Một số những việc kỳ diệu mà Mosê đã thực hiện theo lệnh của Chúa trước mặt Pharaon, đã được các phù thủy trong triều đình bắt chước. Đó là lý do tại sao những việc kỳ diệu thuộc loại này, tự chúng không thể nói lên nguồn gốc của chúng.
Thường thường những người dễ bị nhiễm những rối loạn xấu xa, thì cũng hay được phú cho "độ nhạy cảm" đặc biệt. Chẳng hạn, họ có thể ngay lập tức cảm nhận được tính chất tiêu cực nơi những người khác, họ có thể nhìn thấy trước những biến cố tương lai, hoặc lúc thì họ có một xu hướng mạnh mẽ "đạt tay" trên những người yếu bóng vía. Lúc khác họ cảm thấy họ có thể gây ảnh hưởng trên cuộc đời những người khác, muốn ai bệnh là bệnh, hầu như là một sự thống trị, điều đó phát xuất từ bên trong. Tôi đã làm chứng rằng chỉ có một con đường duy nhất để chữa khỏi những rối loạn này; đó là chiến đấu và chiến thắng những khuynh hướng này.
"Những dấu hiệu này sẽ đi theo những người tin: nhân danh Thày họ sẽ trừ quỷ" (Mc 16,17). Quyền năng này, Chúa Giêsu ban cho tất cả những người tin vào Ngài, vẫn còn hiệu lực đầy đủ. Đó là quyền năng phổ quát, dựa trên lời cầu nguyện và lòng tin. Nó có thể được thực hiện bởi cá nhân hay cộng đồng. Nó luôn luôn sẵn ứng và không đòi hỏi một quyền bính đặc biệt nào. Tuy nhiên, chúng tôi phải nói rõ ra rằng trong trường hợp này chúng ta nói về những kinh nguyện giải thoát, chứ không nói về những câu trừ quỷ. Để gia tăng thêm hiệu lực của quyền năng Đức Kitô ban và để bảo vệ tín hữu khỏi các người phù thủy và các tay lang băm, Giáo Hội lập ra một phép đặc biệt: phép trừ quỷ. Nó chỉ được thi hành bởi các giám mục, và bởi linh mục nào đã nhận được phép trực tiếp và đặc biệt để trừ quỷ (do đó, giáo dân không bao giờ được làm). Giáo luật (1172), nói về việc trừ quỷ, nhắc chở chúng ta rằng phép trừ quỷ này, khác với việc cầu nguyện riêng (1166), cũng được phú ban cho với năng quyền cầu xin của Giáo Hội. Giáo luật 1167 giải thích cách thức phải làm phép như thế nào và phải dùng những nghi lễ và công thức nào đã được Giáo Hội chuẩn nhận. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, chúng tôi rút ra kết luận rõ ràng rằng chỉ duy vị linh mục được ủy quyền, bên cạnh chính vị giám mục-trừ quỷ (tôi ước mong đã có một số!), có thể được mang danh hiệu nhà trừ quỷ. Ngày nay danh hiệu này bị lạm dụng. Nhiều người cả linh mục lẫn giáo dân, đòi được là nhà trừ quỷ trong khi họ không được phép. Và nhiều người đòi thi hành việc trừ quỷ, trong khi - đỡ nhất - họ chỉ đọc những lời kinh giải thoát và - tệ nhất - họ thực hành ma thuật. Chỉ có "phép " được thiết lập do Giáo Hội mới có thể được gọi là phép trừ quỷ ". Bất cứ việc sử dụng danh hiệu nào khác đều là lầm lạc và dối trá. Theo sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, chỉ có hai loại trừ quỷ: phép rửa tội, chỉ là hình thức "trừ quỷ đơn", và phép được dành riêng cho nhà trừ quỷ, phép này được gọi là "trừ quỷ trọng thể" (1673). Thật là sai lầm nếu gọi việc trừ quỷ là những hình thức cầu nguyện can thiệp riêng hoặc thông thường. Những việc cầu nguyện này thực ra chỉ là những lời kinh giải thoát. Nhà trừ quỷ phải theo những kinh trong sách Nghi thức. Có một điều khác nhau chủ yếu giữa phép trừ quỷ và tất cả các phép khác, đó là phép trừ quỷ có thể kéo dài vài phút hoặc nhiều giờ. Do đó, không cần thiết phải đọc thành tiếng tất cả mọi kinh trong sách Nghi thức, hoặc có thể cần thêm nhiều kinh khác, như được đề nghị bởi nghi thức như thế. Phép trừ quỷ có hai mục tiêu: một mục tiêu được nói đến trong tất cả các sách về chủ đề là giải thoát những người bị quỷ ám. Tuy nhiên, điểm khởi đầu và mục tiêu thứ nhất, là chẩn đoán, thì rất thường hay bị bỏ qua. Thực ra, trước khi bắt đầu, nhà trừ quỷ tra hỏi chính cá nhân ấy hoặc thân nhân để biết chắc xem có cần đến phép trừ quỷ không. Nhưng thực sự là chỉ qua chính phép trừ quỷ mới có thể xác định được cách chắc chắn có ảnh hưởng của ma quỷ hay không. Mỗi hiện tượng mà chúng ta gặp, dù lạ lùng hoặc khó giải thích không thành vấn đề, đều có thể có cách giải thích theo tự nhiên. Ngay cả khi chúng ta phải đối mặt với nhiều hiện tượng tâm thần hoặc siêu tâm lý, chúng ta có thể không có đủ dữ liệu để chẩn đoán. Chỉ nhờ phép trừ quỷ thực tế chúng ta mới có thể biết chắc chúng ta đang đụng đến ảnh hưởng của ma quỷ hay không. Ở điểm này chúng ta phải bước vào một chủ đề mà không may lại không có trong sách Nghi thức và chúng được những người đã viết về đề tài này biết tới. Tôi đã nói rằng mục tiêu thứ nhất và trước hết của phép trừ quỷ là chẩn đoán. Tức là, chúng ta phải nắm chắc những triệu chứng là do ma quỷ gây ra hay là bởi những nguyên nhân tự nhiên. Theo thứ tự thời gian, đây là đối tượng đầu tiên chúng ta phải tìm và đạt đến. Tuy nhiên, theo tầm quan trọng, thì đặc biệt phần cuối phép trừ quỷ mới là lúc giải thoát khỏi sự hiện diện xấu xa và khỏi nỗi đau đớn. Điều hết sức quan trọng phải nhớ là thứ tự các sự kiện này (trước tiên là chẩn đoán, rồi đến chữa trị), người trừ quỷ phải dùng để lượng định các dấu hiệu cho đúng. Cũng rất quan trọng việc nhận biết các dấu hiệu xảy ra trước lúc trừ quỷ, đang khi trừ quỷ và sau khi trừ quỷ và sự phát triển của các dấu hiệu trong suốt quá trình trừ quỷ. Chúng tôi tin rằng, một cách gián tiếp, sách Nghi thức nhắm tới sự lần lượt các sự kiện, vì nó đặt ra một qui tắc (số 3) cảnh báo nhà trừ quỷ không được quá vội vàng phát hiện sự hiện diện của ma quỷ. Rồi sách Nghi thức đặt ra những qui tắc cảnh giác các nhà trừ quỷ để đối phó với những thủ đoạn mà Satan dùng để che dấu sự hiện diện của nó. Chúng tôi, những nhà trừ quỷ tin rằng thật là đúng việc cảnh giác để không bị trở nên trò hề bởi những kẻ mắc bệnh tâm thần hoặc không dính dáng gì đến những ảnh hưởng của ma quỷ, do đó không cần đến chúng tôi. Tuy nhiên, cũng có những nguy hiểm ngược lại - và ngày nay càng nhiều hơn và do đó càng đáng sợ hơn - nguy hiểm vì không nhận ra sự hiện diện của ma quỷ và từ chối trừ quỷ khi được yêu cầu. Một cuộc trừ quỷ khi không cần thiết thì cũng chẳng bao giờ làm hại ai, tất cả những nhà trừ quỷ mà tôi đã hỏi đều đồng ý với tôi. Khi trừ quỷ lần đầu và trong những tình huống đáng ngờ, tất cả chúng tôi dùng những phép trừ quỷ ngắn được đọc thầm nên có thể bị hiểu lầm là những phép đơn; chúng tôi không bao giờ hối tiếc khi làm điều đó. Mặt khác, chúng tôi có lý để phàn nàn mình thiếu khả năng nhận biết sự hiện diện của ma quỷ trong những trường hợp hiếm hoi khi chúng tôi từ chối trừ quỷ và không nhận biết một hoạt động dai dẳng của ma quỷ mà về sau mới phát hiện được. Cần nêu bật tầm quan trọng của việc nhận ra những dấu hiệu; dù cho những dấu hiệu ít ỏi và không chắc chắn thì cũng đủ để tiến hành việc trừ quỷ. Nếu, trong suốt thời kỳ trừ quỷ, chúng tôi phát hiện thêm những dấu hiệu, chúng tôi sẽ tiếp tục kéo dài như sự cần thiết, cho dù lần trừ quỷ đầu tiên đã thực hành tương đối nhanh. Có thể là, trong khi chúng tôi không thấy những dấu hiệu trong suốt kỳ trừ quỷ, thì về sau bệnh nhân vẫn cảm nghiệm thấy những lợi ích đáng kể từ buổi trừ quỷ đó. Về điểm này chúng tôi nhắc lại việc trừ quỷ; nếu những lợi ích tiếp tục, sớm muộn gì những dấu hiệu cũng sẽ xuất hiện trong thời gian trừ quỷ. Tôi tiếp tục nhấn mạnh rằng việc quan sát sự phát triển những dấu hiệu này dễ dàng nhất là khi đang tiến hành việc trừ quỷ. Khi những dấu hiệu bắt đầu giảm dần, thì thường là việc chữa lành cũng đã bắt đầu. Khi những dấu hiệu gia tăng theo một kiểu không thể nói trước, thì thường thường nó báo hiệu một sự hiện diện dấu ẩn của ma quỷ sắp được phơi bày. Chỉ khi nào mọi sự được phơi bày thì việc chữa lành mới bắt đầu. Từ điều chúng tôi đã nói, chúng ta có thể hiểu: thật là ngây thơ, nếu cứ chờ cho đến khi chắc chán là quỷ nhập mới thực hiện việc trừ quỷ. Chờ đợi như thế là hoàn toàn thiếu kinh nghiệm đối với việc trừ quỷ, có một số loại dấu hiệu thường lộ diện đang khi, sau khi trừ quỷ, hoặc như một kết quả của nhiều cuộc trừ quỷ. Tôi đã chạm trán với một số trường hợp đòi hỏi nhiều năm trừ quỷ trước khi căn bệnh biểu lộ hết những trầm trọng của nó. Thật vô ích việc cố gắng định ra một chuẩn mẫu về hành vi của những người bị ảnh hưởng của ma quỷ. Những nhà trừ quỷ càng từng trải càng có nhiều khả năng để nhận ra một cách chắc chắn những hình thức biểu hiện có ma quỷ. Chẳng hạn, ba dấu hiệu mà sách nghi thức kể ra như những triệu chứng quỷ nhập, đó là nói tiếng lạ, biểu lộ sức mạnh siêu phàm, và biết những điều bí ẩn, đó chính là kinh nghiệm của tôi và của tất cả những nhà trừ quỷ mà tôi đã hỏi, ba dấu hiệu đó luôn luôn xuất hiện trong thời gian trừ quỷ, không bao giờ xuất hiện trước. Thật không thực tế nếu chờ đợi những dấu hiệu đó xuất hiện trước khi tiến hành trừ quỷ. Tuy nhiên, chúng tôi không thể luôn luôn đạt được một sự chẩn đoán chính xác. Thường thường chúng tôi phải đối diện với những tình huống làm chúng tôi lúng túng. Đó là vì thường thường, trong những trường hợp khó khăn nhất, chúng tôi phải đối diện với những người bị khổ sở vừa do ảnh hưởng ma quỷ vừa do những xáo trộn tâm lý. Trong những trường hợp này, một nhà điều trị tâm lý có thể giúp hữu hiệu. Cha Candido nhiều lần đã gọi cho giáo sư Mariani, người đứng đầu một bệnh viện tâm thần danh tiếng ở Roma, để giúp ngài trong việc trừ quỷ. Và nhiều lần giáo sư Mariani đã mời cha Candido tới giúp ông chẩn đoán và cuối cùng chữa một số bệnh nhân của ông. Tôi phải cười khi một số "chuyên gia" thần học tân thời nói rằng một vài loại bệnh tâm thần có thể lẫn lộn với hiện tượng quỷ nhập. Một số thầy thuốc tâm thần hoặc những nhà siêu tâm lý cũng có những phát biểu như thế. Nếu họ có thể hiểu biết nhiều hơn, thì họ nên biết rằng những chuyên gia đầu tiên cảnh giác việc chẩn đoán sai lầm chính là những vị có thẩm quyền trong Giáo Hội. Từ năm 1583, trong những sắc luật của hội nghị thành Reims, Giáo Hội đã cảnh báo về nguy cơ lầm lẫn giữa bệnh tâm thần và quỷ ám. Nhưng thời đó khoa tâm thần còn chưa sinh ra, và các thần học gia đã tin vào Phúc Âm. Phép trừ quỷ, cùng với việc chẩn đoán, nhằm chữa lành bệnh nhân bằng cách giải thoát họ khỏi ảnh hưởng ma quỷ; một hành trình dài và thường là khó khăn bắt đầu từ đây. Việc cộng tác từ phía người bị ám, vốn là cần thiết, thì thường bị ngãng trở: đáng lẽ họ nên cầu nguyện, thì thường lại không. Họ nên năng lãnh nhận các bí tích, mà họ lại không thể. Thỉnh thoảng, ngay cả khi đến với nhà trừ quỷ để lãnh nhận các phép thì xem ra giống như một bổn phận rất khó khăn. Họ cần được giúp đỡ từ phía người khác, mà hầu hết các trường hợp, không ai hiểu họ. Để trừ quỷ ra khỏi một người phải mất bao nhiêu thời gian? Đây là một câu hỏi không có câu trả lời. Người giải thoát là Thiên Chúa. Ngài hành động với sự tự do thần linh, cho dù Ngài rất lắng nghe những lời cầu nguyện, đặc biệt nếu được dâng lên với sự cầu bầu của Giáo Hội. Nói chung, chúng ta có thể nói rang yếu tố thời gian tỉ lệ với sức mạnh ban đầu của sự quỷ ám và chiều dài thời gian trước khi tìm đến sự trừ quỷ. Tôi kể lại chuyện một cô gái mười bốn tuổi, đã bị quỷ ám chỉ mới vài ngày. Cô ta coi bộ rất hung dữ; cô đấm, đá và cào cấu. Chỉ cần mười lăm phút trừ quỷ là cô được giải thoát hoàn toàn. Có lúc cô ta gục xuống đất như chết - giống hệt như chàng thanh niên trong Phúc Âm mà các tông đồ không trừ được. Sau vài phút cô ta phục hồi lại cảm giác và bắt đầu chạy vui đùa với đứa em trai. Tuy nhiên, những lần chữa lành nhanh như thế là rất hiếm hoặc chỉ xảy ra khi ảnh hưởng ma quỷ còn nhẹ. Phần lớn thời gian nhà trừ quỷ phải giải quyết những trường hợp gay go, vì không ai nghĩ đến nhà trừ quỷ nữa. Tôi sẽ cho một thí dụ tiêu biểu. Một đứa trẻ biểu lộ cách hành xử kỳ cục. Cha mẹ nó không tìm ra nguyên nhân; họ nghĩ rằng khi lớn lên triệu chứng đó sẽ hết, đặc biệt khi đó, khi bắt đầu, các triệu chứng còn nhẹ. Khi hiện tượng trở nên tồi tệ, cha mẹ nó bắt đầu tìm thầy chạy thuốc; hết thầy nọ thuốc kia nhưng không có kết quả. Một lần có một cô gái mười bảy tuổi đã đến với tôi. Sau khi đến với các bệnh viện danh tiếng ở Âu châu, cô ta được các bạn bè thân quen cho rằng cô ta bị một số ảnh hưởng không tự nhiên và đề nghị cô đến với thày bùa. Lúc này tổn thất ban đầu đã tăng lên nhiều. Do một cơ may, nghe theo lời khuyên của người biết chuyện (hầu như không bao giờ là các linh mục), cô ta đã đến xin tôi giúp đỡ. Quá trình xảy ra trên một thời kỳ nhiều năm, và ảnh hưởng ma quỷ đã ăn rễ sâu. Kinh trữ quỷ đầu tiên nói về "việc trừ tiệt và đuổi hẳn" ma quỷ, và cũng hợp lý. Tình trạng giống như người này đòi hỏi nhiều thời kỳ, thường sau nhiều năm: và sự giải thoát không luôn luôn có thể. Tôi nhắc lại: yếu tố thời gian thuộc về Thiên Chúa. Đức tin của nhà trừ quỷ và đức tin của người được trừ rất hữu ích, cũng như những lời cầu nguyện của nạn nhân, của gia đình của họ, và của các tín hữu khác (như những nữ tu, cộng đồng giáo xứ, các nhóm cầu nguyện, và đặc biệt những nhóm này tập trung vào những lời kinh giải thoát). Các á bí tích thích hợp, như nước trừ quỷ, ít nhất là nước thánh, dầu trừ quỷ và muối trừ quỷ, khi được dùng liên kết với mục tiêu được chỉ định bởi lời kinh giải thoát, thì hết sức lợi ích. Bất cứ linh mục nào cũng có thể làm phép nước, dầu, và muối, để trừ quỷ và không đòi hỏi một nhà trừ quỷ. Tuy nhiên, cần thiết là vị linh mục tin và quen với những việc làm phép này trong sách nghi thức. Những linh mục biết về các phép này thì rất hiếm; phần nhiều không biết có các phép ấy và hay cười nhạo bất cứ ai đến yêu cầu làm các phép ấy. Tôi sẽ trở lại chủ đề này sau. Điều quan trọng cơ bản là năng lãnh nhận các bí tích và sống một đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng. Có nhiều tài liệu chứng minh sức mạnh của kinh Mân côi và lòng sùng kính Đức Maria. Thứ đến là sự cầu bầu của các thiên thần và các thánh. Việc hành hương đến những đền thánh cũng rất hữu ích. Các đền thánh thường được xây trên những vị trí đặc biệt được Thiên Chúa chọn như là những nơi để việc trừ quỷ có thể được hoàn tất. Thiên Chúa đã ban xuống trên chúng ta vô số những phương pháp ban ân sủng; chúng ta có nhiệm vụ phải lợi dụng cho nên. Khi Phúc Âm tường thuật chuyện Đức Kitô bị Satan cám dỗ, Phúc Âm tỏ rõ cho chúng ta thấy Ngài đã dùng chính những câu Kinh Thánh để khiển trách tên cám dỗ. Lời Thiên Chúa rất hiệu nghiệm; những lời cầu nguyện - cả tự phát và đặc biệt lấy trong Kinh Thánh, như các Thánh vịnh hoặc Thánh ca tôn vinh Thiên Chúa - cũng hết sức lợi ích. Dù với tất cả những ân sủng này, để việc trừ quỷ được hiệu nghiệm, đòi người trừ quỷ phải rất khiêm nhường, vì họ có thể cảm nghiệm trực tiếp họ không là gì, và Đấng hành động chính là Thiên Chúa. Cả nhà trừ quỷ lẫn người được trừ phải trải qua những giai đoạn thất điên bát đảo; kết quả hiển nhiên thường đạt được một cách chậm chập và khó khăn. Mặt khác, nhà trừ quỷ cũng có thể cảm nghiệm trực tiếp những kết quả thiêng liêng lớn lao. Những kết quả này giúp chúng ta phần nào hiểu được lý do tại sao Chúa để cho xảy ra những thử thách ghê gớm này. Chúng ta tiến vào đêm tối đức tin, mà vẫn hiểu biết mình đang tiến đến ánh sáng. Tôi muốn thêm một số suy tư về tầm quan trọng chở che của các ảnh tượng thánh, cả đeo trong người lẫn đạt ở những nơi như trước cửa nhà, trong phòng ngủ, phòng ăn, hoặc căn phòng được gia đình xử dụng nhiều nhất. Ảnh tượng không phải là bắt chước phong tục ngoại đạo về một thứ "bùa cầu may" nhưng là theo quan niệm Kitô giáo để noi gương và tìm kiếm sự che chở của những vị mà ảnh tượng đó là đại diện. Ngày nay tôi thường thấy nhiều nhà có treo chiếc sừng đỏ ngay trước cửa, và khi tôi đi từ phòng này sang phòng khác để làm phép, tôi thấy rất ít những ảnh thánh. Đó là một sai lầm lớn. Tôi nhớ gương của thánh Bernadinô thành Siena, người đã muốn thuyết phục các gia đình đạt trước cửa nhà họ một huy hiệu lớn với những chữ đầu của tên Chúa Giêsu (JHS tức là: Jesus Hominium Salvator, Chúa Giêsu, Đấng cứu độ loài người), như một vật kỷ niệm về sứ mạng rất phổ biến của ngài. Chính tôi cũng đã cảm nghiệm nhiều lần sự hiệu năng của các mẫu ảnh được đeo với đức tin. Có nhiều phép lạ không kể xiết nhờ mẫu ảnh Miraculous, được phát cho hàng triệu người trên khắp thế giới, sau những lần Đức Trinh Nữ hiện ra với thánh Catarina Labouré (Paris năm 1830). Có nhiều sách bàn về chủ đề này. Một trong những thí dụ nổi tiếng nhất về quỷ ám mà nhiều sách đã tường thuật, nhờ có tính chính xác của những tài liệu lịch sử, liên quan đến hai anh em Burners, ở Illfur, Alsatia. Hai anh em này đã được giải thoát vào năm 1869, sau hàng loạt các cuộc trừ quỷ. Người ta cho biết trong số những hành động cực kỳ độc ác của ma quỷ là kế hoạch lật nhào chiếc xe ngựa chở nhà trừ quỷ, một giám mục và một nữ tu. Nhưng ý định của ma quỷ đã thất bại chỉ vì anh đánh xe ngựa, vào phút chót đã được ảnh thánh Bênêdictô mà anh ta luôn luôn mang trong túi, che chở cho anh trong suốt cuộc hành trình. Sau cùng tôi nhớ đến bốn đoạn trong sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo nói về việc trừ quỷ. Nếu chúng ta lần lượt đọc, chúng ta sẽ tìm thấy có một tiến trình rất hợp lý, đó là: Đoạn 517 nói về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc và những việc chữa lành và trừ quỷ của Ngài. Đây là khởi điểm các hoạt động của Đức Kitô. Đoạn 550 nói rằng "Nước Thiên Chúa đến có nghĩa là đánh bại nước của Satan"; đây là những lời của Đức Kitô được trích dẫn: "Nếu nhờ thần khí Thiên Chúa mà tôi trừ quỷ, thì nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi" (Mt l2,28). Đây là mục tiêu sau cùng của việc trừ quỷ: với sự giải thoát những người bị quỷ ám, chúng ta chứng minh chiến thắng hoàn toàn của Đức Kitô trên thủ lãnh thế gian. Hai đoạn tiếp theo nói cho chúng ta về tiến trình kép của việc trừ quỷ: một như là thành phần của phép rửa, và một nữa như là năng lực giải thoát cho những người bị ám. Đoạn 1237 nhắc chúng ta nhớ rằng phép rửa là sự giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự làm nô lệ Satan. Do đó, có một hoặc nhiều hơn nữa những câu trừ quỷ được đọc trên người chịu phép rửa là người dứt khoát từ bỏ Satan. Đoạn 1673 khẳng định rang Giáo Hội, nhờ việc trừ quỷ, chính thức và công khai nhân danh Chúa Giêsu Khô xin cho người hoặc đồ vật phải được che chở khỏi mọi ảnh hưởng của ma quỷ và không để nó thống trị. Việc trừ quỷ nhằm đến việc trừ khử ma quỷ hoặc giải thoát khỏi những ảnh hưởng của nó. Tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của đoạn sau này, là đoạn bù vào hai chỗ thiếu sót trong sách nghi thức và trong bộ giáo luật. Thực ra, nó nói về sự giải thoát không chỉ con người, nhưng còn cả đồ vật nữa (đây là thuật ngữ chung có thể bao hàm nhà cửa, con vật, đồ vật, theo truyền thống). Giáo luật làm cho việc trừ quỷ trừ được cả những ảnh hưởng của ma quỷ chứ không chỉ duy có việc trừ quỷ ám.
Tác giả: Lm. Gabriele AmorthTôi thường tự hỏi không biết có nhiều người bị quỷ dữ hành hạ hay không. Để trả lời, tôi xin lấy ý kiến của một nhà trừ quỷ danh tiếng người Pháp, Cha Tonquedec, Dòng Tên: "Có rất đông đảo các linh hồn bất hạnh, trong khi không có dấu hiệu bị quỷ ám mà vẫn chạy đến với nhà trừ quỷ để được giải thoát khỏi những đau khổ, như những bệnh nan trị, những tai họa, đủ thứ rủi ro. Những người này chỉ có số ít bị ma quỷ ám, nhưng những linh hồn bất hạnh thì rất nhiều."
Điều nhận xét này vẫn còn hiệu lực khi chúng ta xét sự khác nhau lớn lao giữa những người thực sự bị hành hạ và những người chỉ muốn có được ý kiến khôn ngoan của nhà trừ quỷ liên quan đến hàng loạt những nỗi thống khổ của họ. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta cũng phải tính đến nhiều nhân tố mà thời của cha Tonquedec chưa có. Tôi đã trực tiếp kinh nghiệm những nhân tố này, và căn cứ trên những kinh nghiệm này tôi có thể nói rang con số những người chịu ảnh hưởng của ma quỷ càng ngày càng gia tăng nhiều.
Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến sự gia tăng ảnh hưởng xấu là chủ nghĩa tiêu thụ phương Tây. Phần đông người ta mất đức tin là do lối sống hưởng lạc và duy vật. Tôi tin rằng phần lớn trách nhiệm được gán cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt tại Ý, nơi học thuyết Mác-xít chi phối các phương tiện truyền thông và văn hóa trong vài năm qua. Người ta ước lượng chỉ còn 12 phần trăm dân chúng ở Roma tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật; điều rất rõ ràng là nơi đâu tôn giáo thoái trào, thì mê tín dị đoan phát triển. Chúng ta cũng nhìn thấy sự phát sinh nhanh chóng, đặc biệt nơi giới trẻ, về thông linh, ma thuật và huyền bí. Chúng ta có thể thêm vào đó việc theo đuổi môn Yoga, Thiền, chiêm niệm huyền ảo (transcendental meditation): tất cả những cái này thực hành đều dựa trên thuyết đầu thai, trên sự tan biến ngôi vị con người vào thần tính, hoặc trong bất cứ tình huống nào, dựa trên những học thuyết khác mà Kitô giáo không thể chấp nhận được. Chúng ta không cần phải đi đến Ấn độ để tìm những thày Guru; chúng ta có thể thấy họ nhan nhản trước mặt. Thường thường những việc bề ngoài có vẻ vô tội vạ ấy sẽ đưa đến những tình trạng bệnh ảo giác và tâm thần phân liệt. Tôi có thể thêm vào đó sự tăng nhanh theo cấp số nhân nhiều giáo phái, nhiều trong số đó mang dấu vết rõ ràng của ma quỷ.
Ma thuật và thuyết thông linh được dạy trên TV. Các sách về huyền bí được bày bán tại các sạp báo và qua bưu điện. Rồi chúng ta có thể thêm các bộ sưu tầm báo chí các loại và các buổi trình chiếu ghê rợn nơi mà điệu nhảy ma quỷ được thêm vào với sex và bạo lực. Và chúng ta cũng không thể không nhắc đến các loại âm nhạc đầy ám ảnh nhưng phát triển rất phổ biến; tôi có ý ám chỉ đặc biệt đến loại nhạc Rock quỉ quái. PieRomantero đã khai triển về chủ đề này trong sách của ngài nhan đề Satana e lo stratagemma della coda (Udine: Segno, 1988). Khi tôi được mời nói chuyện ở một số trường trung học, tôi đã có thể đích thân chứng minh ảnh hưởng của các công cụ này của Satan trên giới trẻ lớn lao chừng nào. Thật không thể tin nổi ma thuật và thuyết thông linh, dưới mọi hình thức, đã lan rộng nơi các trường học biết chừng nào. Sự dữ này có mặt khắp nơi, ngay cả trong những thị trấn nhỏ.
Tôi cũng phải nói thẳng ra rằng quá nhiều những nhân viên Giáo Hội hoàn toàn không quan tâm đến vấn đề này, và vì vậy họ không lo bảo vệ các tín hữu. Tôi tin rằng việc bỏ hầu hết các kinh trừ quỷ ra khỏi nghi thức rửa tội là một sai lầm trầm trọng (và dường như Đức Thánh Cha Phao lô VI cũng nghĩ như tôi). Tôi tin rang thật là một sai lầm vì đã loại bỏ kinh cầu cùng Đức Tổng Thần Micae sau mỗi Thánh Lễ mà không có sự thay thế thích hợp. Tôi xác tín rằng việc để cho thừa tác vụ trừ quỷ chết đi là một khuyết điểm không thể tha thứ thuộc về các giám mục. Mỗi giáo phận nên có ít nhất một nhà trừ quỷ tại nhà thờ chính tòa, và mỗi giáo xứ lớn và đền thánh cũng nên có một vị như thế. Ngày nay nhà trừ quỷ xem ra rất hiếm hoi, hầu như không thể tìm thấy. Mặt khác, hoạt động của nhà trừ quỷ có một giá trị không thể thiếu, cũng như giá trị của nhà giảng thuyết, giải tội, và những người ban các bí tích khác.
Hàng giáo phẩm Công Giáo phải đấm ngực ăn năn. Tôi có quen riêng với nhiều giám mục Ý; tôi biết chỉ có vài vị là đã từng thực hành hoặc tham dự vào việc trừ quỷ hoặc hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. Tôi không ngần ngại lặp đi lặp lại điều mà tôi đã viết ở một chỗ khác: nếu một giám mục, trước một yêu cầu trừ quỷ hợp lý - tôi không nói đến đòi hỏi của một số người điên cuồng - mà không giải quyết vấn đề đích thân hoặc cử một linh mục có phẩm chất, thì ngài đã phạm vào một tội quên sót hết sức nghiêm trọng. Như kết quả của sự sao lãng này, bây giờ chúng ta đã đánh mất cái mà trước kia đã là một môn học; trong quá khứ, một nhà trừ quỷ thực tiễn sẽ đào tạo một người tập sự. Tôi sẽ trở lại đề tài này.
Chính nhờ phim ảnh mà chúng ta tìm thấy một sự tái quan tâm về việc trừ quỷ. Đài phát thanh Vatican, vào ngày 2.2.1975 phỏng vấn William Freidkin, đạo diễn cuốn phim Người Trừ Quỷ, và "vị cố vấn chuyên môn" của ông. một thần học gia, cha Thomas Bemingan, dòng Tên. Nhà đạo diễn phát biểu rằng ông ta muốn nói về những sự kiện của một giai đoạn đã xảy ra thực sự vào năm 1949 và đã được viết thành sách, bộ phim không rút ra bất cứ kết luận nào liên quan đến quỷ ám. Theo nhà đạo diễn, đây là vấn đề dành cho các nhà thần học. Khi vị linh mục dòng Tên được hỏi bộ phim Người Trừ quỷ chỉ là một trong nhiều phim kinh dị hay là một cái gì đó hoàn toàn khác hẳn, ngài mạnh mẽ xác nhận rằng nó là một loại hoàn toàn khác. Ngài đã kể ra ảnh hưởng lớn lao mà bộ phim đã gây cho khán giả trên toàn thế giới như một bằng chứng rằng - trừ ra một số những hiệu quả đặc biệt - bộ phim đã giải quyết rất đúng vấn đề ma quỷ, đánh thức lại mối quan tâm về việc trừ quỷ đã bị quên lãng.
Chúng ta có thể làm mồi cho những hoạt động ngoại thường của Satan như thế nào? Tôi có ý nói đến những hoạt động khác hơn những hoạt động thông thường, như cám dỗ, vốn xảy đến cho mọi người. Chúng ta có thể trở nên như thế do lỗi của chúng ta hoặc do hoàn toàn không biết. Chúng ta có thể gom các lý do lại thành bốn loại: 1. với sự cho phép của Thiên Chúa, 2. như những nạn nhân vô tội của một thứ bùa ngải, 3. do tình trạng tội trọng và đã ra chai đá, 4. do liên đới với những người hoặc nơi chốn xấu.
1. Với sự cho phép của Thiên Chúa. Tôi muốn nói rõ ra rằng không có gì xảy ra mà không có phép của Thiên Chúa. Nhưng cũng rõ ràng là Chúa không muốn sự dữ cho bất cứ ai, nhưng Ngài cho phép xảy ra khi đó là ý muốn của chúng ta (vì Ngài đã tạo dựng nên chúng ta với ý chí tự do hoàn toàn), và Ngài có thể sử dụng mọi sự kể cả sự dữ để mưu ích cho ta. Nét đặc trưng của loại thứ nhất trong các hoạt động ngoại thường của Satan là hoàn toàn không do tội lỗi của con người; nó hoàn toàn do sự can thiệp của quỷ. Thiên Chúa luôn luôn cho phép các hoạt động bình thường của Satan - cám dỗ - và ban cho chúng ta tất cả những ân sủng cần thiết để chống trả, để đưa tới kết quả tốt là tăng cường đời sống thiêng liêng của chúng ta. Tương tự như thế, Thiên Chúa đôi khi cũng cho phép những hoạt động ngoại thường của Satan - quỷ nhập, những ảnh hưởng xấu - để gia tăng thêm sự khiêm nhường, nhẫn nại và hành xác. Chúng tôi đã cho một vài thí dụ về loại này: một hành động bên ngoài của ma quỷ gây ra những đau đớn thể lý (như những trận đòn vọt mà cha sở họ Ars và Padre Pio đã phải chịu) hoặc khi cái gọi là quỷ hành được cho phép, như chúng tôi đã đề cập liên quan đến ông Job và thánh Phaolô.
Đời sống của các thánh bao gồm những mẫu gương về những nỗi đớn đau này. Trong số các thánh thời hiện đại, tôi có thể kể ra hai vị đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh: Cha Giovanni Calabria và Dì Mary of Jesus Crucified (người Ả rập đầu tiên được phong thánh). Cả hai trường hợp, và không do lỗi nhân loại, họ đều có những thời kỳ bị quỷ nhập thực sự. Trong suốt những thời kỳ này, hai vị đã nói và làm những điều hoàn toàn không thích hợp với sự thánh thiện của họ mà không mắc chút lỗi nào, bởi vì chính ma quỷ hành động qua thể xác của họ.
2. Khi chúng ta bị bỏ bùa. Đây là một trường hợp khác trong đó nạn nhân hoàn toàn không đáng trách. Tuy nhiên, ở đây có một số hoạt động nhân loại, nhưng được thực hiện do những người bỏ bùa hoặc thuê mướn thày bùa. Tôi sẽ dành hơn một chương về chủ đề này. Ở đây tôi sẽ chỉ nói rằng bỏ bùa là gây đau khổ cho những người khác thông qua sự can thiệp của ma quỷ. Sự can thiệp này có thể mang nhiều hình thức khác nhau: sự trói buộc, bùa-nhìn (the evil eye), một lời nguyền rủa. Tôi sẽ nói ngay rằng phương pháp thông dụng nhất là yêu thuật. Yêu thuật cũng là nguyên nhân thường xuyên nhất mà chúng tôi phải chạm trán nơi những người bị hành hạ bởi sự quỷ nhập hoặc bởi những ảnh hưởng độc ác khác. Tôi không hiểu những lý do đàng sau sự từ chối của một số nhân viên Giáo Hội, họ yêu cầu đừng tin vào yêu thuật, cũng như tôi không thể hiểu làm cách nào họ có thể che chở khỏi yêu thuật những người ở giữa đàn chiên của họ đang là nạn nhân của sự dữ này.
Một số người có thể ngạc nhiên rằng Thiên Chúa cho phép loại sự dữ này xảy ra. Thiên Chúa tạo nên chúng ta có tự do, và Ngài không bao giờ loại bỏ các tạo vật của Ngài ngay cả người hư hỏng nhất. Cuối cùng, Ngài thưởng cho mỗi người tùy theo công nghiệp của họ, bởi vì mỗi người sẽ bị xét xử theo những hành động của mình. Trong khi đó, nếu chúng ta sử dụng tốt tự do mà Ngài đã ban cho, chúng ta sẽ được phần thưởng, hoặc chúng ta có thể dùng tự do vào những mục đích xấu để lãnh lấy hình phạt. Chúng ta có thể giúp đỡ những người khác hoặc làm tổn thương họ dưới nhiều hình thức lạm dụng. Xin đan cử một thí dụ: tôi có thể thuê một tên giết người giết một ai đó; Thiên Chúa không bị bó buộc phải bắt hắn dừng tay. Cũng dễ dàng như vậy: tôi có thể thuê một tay thầy bùa bỏ bùa cho một ai đó. Thiên Chúa, cũng như trong trường hợp trên, không bị bó buộc phải can thiệp, mặc dù trong nhiều trường hợp Ngài có can thiệp. Chẳng hạn những người sống trong tình trạng ân sủng, những người cầu nguyện thường xuyên, có nhiều cơ may nhận được sự can thiệp của Thiên Chúa chống lại ma quỷ hơn những người không thực hành đức tin, hoặc tồi tệ hơn nữa, đang sống trong tình trạng tội trọng.
Ở đây tôi phải cho một lời cảnh báo mà tôi sẽ triển khai ở một chương sau: lãnh vực yêu thuật và những hoạt động ma quỷ khác là lãnh vực của những kẻ lừa bịp. Những trường hợp yêu thuật thực sự chỉ có một tỉ lệ nhỏ nhoi trong số vụ lừa đảo đang thịnh hành trong phạm vi này. Bên cạnh việc đem lại nhiều cơ hội cho những tay lừa đảo, yêu thuật cũng còn đặc biệt làm thỏa mãn những gợi ý và ý nghĩ nông cạn của những trí khôn nhu nhược. Do đó, điều quan trọng là những nhà trừ quỷ phải đề phòng sự lừa bịp, nhưng cũng quan trọng là mỗi người với lương tri, cũng phải cảnh giác.
3. Tình trạng tội nặng và chai đá. Ở đây chúng tôi đang nói đến nguyên nhân mà ngày nay, không may, đang gia tăng, với hậu quả làm tăng thêm số người làm nạn nhân của ma quỷ. Xét tận gốc, nguyên nhân đích thực luôn luôn là thiếu đức tin. Khi sự thiếu đức tin tăng thì sự mê tín dị đoan cũng tăng. Đó hầu như là thực tế toán học. Tôi tin rằng Phúc Âm cho chúng ta thí dụ rõ ràng về tính cách của Giuđa. Hắn ta là một kẻ cướp. Ai biết được biết bao nhiêu lần Chúa Giêsu cố gắng sửa bảo và kêu gọi hắn thống hối, nhưng hắn chỉ để ngoài tai và chai đá trong tội lỗi. Giuđa đã đạt tới cao điểm khi nó hỏi vị trưởng tế: "Các ông định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi nộp Ngài cho các ông? (Mt 26,15). Trong trình thuật về bữa Tiệc Ly, Phúc Âm kể cho chúng ta bản án khủng khiếp về Giuđa: "Rồi sau khi nuốt mẩu bánh, Satan đã nhập vào hắn" (Ga 13, 27). Tôi không hồ nghi ở đây có ý nói đến việc quỷ nhập thực sự.
Trong môi trường hiện nay, nơi mà chúng ta đang chứng kiến sự sụp đổ của các gia đình, tôi đã đương đầu với nhiều trường hợp của những người bị quỷ nhập, họ là những người, ngoài những tội khác, còn sống trong hôn nhân bất hợp pháp. Tôi đã nhiều lần giải quyết cho những phụ nữ phạm tội ác phá thai. Tôi đã phải đương đầu với rất đông những người, thêm vào với những thác loạn tình dục, còn phạm thêm những hành động bạo lực khác nữa. Nhiều lần tôi đã phải đối diện với những người đồng tính nghiện ma túy và phạm những tội liên quan đến ma túy. Hiển nhiên là trong tất cả các trường hợp đó, con đường đi đến sự chữa lành chỉ bắt đầu với sự hoán cải thật lòng.
4. Liên đới với người và nơi xấu. Loại này gồm việc thực hành hoặc tham dự vào việc thực hành gọi hồn, yêu thuật, thờ Satan, hoặc các giáo phái - đỉnh cao là lễ misa đen - việc thờ phụng... liên kết với các thầy phù thủy, các thày cúng, hoặc một vài loại thày mo. Tất cả những thứ này là những hoạt động có thể làm tổn thương chúng ta trước những bùa chú quỷ ma. Nếu chúng ta đi xa đến độ muốn quan hệ với Satan, thì có một thứ giống như tận hiến cho Satan, ký máu ăn thề với Satan, gia nhập trường phái Satan, và chọn làm tư tế của Satan. Bất hạnh thay, trong mười lăm năm qua, chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng, hầu như bùng nổ, các kiểu liên kết này.
Một thí dụ rất thông thường của việc liên kết với các thày phù thủy hay thày mo là thế này: có một người nào đó mắc một chứng bệnh nan trị không thể tìm được bất cứ phương dược nào. Một người khác từng chịu mọi thứ rủi ro và tin rằng đó là do ảnh hưởng của ma quỷ. Họ đến thỉnh cầu một gã thày mo hoặc thày phù thủy, han nói với họ: "Anh bị bùa yểm." Cho đến bấy giờ sự tổn thất chưa đáng kể. Tuy nhiên, không may, sau đó tên phù thủy sẽ nói đại khái thế này: "Nộp mười ngàn Dollars - hay hơn nữa - tôi sẽ chữa cho anh." Tiền thù lao có thể lên đến 35.000 Dollars. Nếu bệnh nhân đồng ý, tên thày mo hoặc thầy phù thủy sẽ đòi hỏi một số vật thuộc cá nhân: một tấm hình, một miếng quần áo lót, một mớ tóc, hoặc chút móng tay cắt ra. Lúc này hành vi ma quỷ đã thực hiện. Thầy mo sẽ làm gì với những vật này? Rõ rằng hắn dùng để thực hành ma thuật đen.
Không may, nhiều người trở nên nạn nhân cho những tên này bởi vì những tên phù thủy này thường là các mụ đàn bà, những người thường được thấy trong nhà thờ, hoặc vì phòng của người phù thủy cũng có treo ảnh Thánh giá, chân dung các thánh, Đức Trinh Nữ, và chân dung cha Pardre Pio. Các nạn nhân cũng thường nói: "Tôi chỉ thực hành ma thuật trắng; nếu bạn yêu cầu tôi thực hành ma thuật đen tôi sẽ từ chối." Theo thuật ngữ hiện hành, ma thuật trắng có nghĩa là lấy bùa ra khỏi; ma thuật đen nghĩa là bỏ bùa vào. Thực ra, như cha Candido không ngừng nhắc lại rằng không có chuyện ma thuật trắng với đen; chỉ có ma thuật đen. Mọi hình thức ma thuật đều được thực hành với sự trợ giúp của Satan. Do đó, nạn nhân khốn nạn nào đã đến với phù thủy với một chút ảnh hưởng ma quỷ (hoặc có thể không chút ảnh hưởng nào) thì cũng trở về nhà với một ảnh hưởng ma quỷ thực sự và đầy tràn tai họa. Khi điều đó xảy ra, thường thường chúng tôi, những nhà trừ quỷ, phải làm việc vất vả nhiều sau hành động rủi ro của các phù thủy hơn là nếu bệnh nhân đến với chúng tôi ngay từ đầu.
Ngày nay cũng như thời xưa, nhiều khi sự việc quỷ nhập có thể bị lẫn với các bệnh về tâm lý. Tôi rất quí trọng các thầy thuốc tâm lý, những người thành thạo trong nghề và biết những giới hạn của khoa của họ. Họ có thể trung thực nhận biết khi nào một trong những bệnh nhân của họ biểu lộ những triệu chứng vượt quá bất cứ căn bệnh nào đã được biết đến. Chẳng hạn, giáo sư Simone Morabito, ở Begamo, nói rằng nhiều người coi như bị bệnh tâm thần, trong thực tế họ bị đau đớn vì bị quỷ ám, và ông ta có thể chữa cho họ với sự giúp đỡ của các nhà trừ quỷ (x. Gents, no. 5 [1990], pp. 106-12). Tôi biết nhiều trường hợp tương tự và tôi muốn cho một thí dụ đặc biệt.
Vào ngày 24.4.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh cho cha Francisco Palau, dòng Cát minh Tây ban nha. Cha Palau rất quan tâm đến những công việc của chúng tôi vì ngài đã dành những năm cuối đời để lo cho những người bị quỷ ám. Ngài mua một bệnh viện để chăm sóc những bệnh nhân tâm thần. Ngài đã trừ quỷ cho tất cả mọi bệnh nhân, những ai bị quỷ ám thì đã được khỏi còn những người chỉ bị bệnh tâm thần thì vẫn còn bệnh. Ngài phải đương đầu với nhiều ngãng trở trong tác vụ của ngài, chủ yếu từ phía hàng giáo sĩ. Ngài đến Roma hai lần, một lần vào năm 1866 để trình bày những vấn đề của ngài với Đức Thánh Cha Pio IX, và một lần vào năm 1879 để xin Công Đồng Vatican I tái lập chức vụ trừ quỷ như một tác vụ vĩnh viễn của Giáo Hội. Chúng ta biết rằng Công Đồng đã bị gián đoạn; tuy nhiên, nhu cầu tái lập lại công việc mục vụ này vẫn còn khẩn thiết.
Phải thừa nhận rằng thật khó mà phân biệt được giữa người bị quỷ ám và người bị bệnh tâm thần. Tuy nhiên, một nhà trừ quỷ thành thạo sẽ có thể nhận ra sự khác biệt dễ dàng hơn bác sĩ tâm lý bởi vì nhà trừ quỷ có đầu óc cởi mở trước tất cả mọi khả năng và sẽ có thể nhận dạng những yếu tố khác biệt. Bác sĩ tâm lý, trong phần lớn các trường hợp, không tin vào sự quỷ ám; do đó, họ không xét đến khía cạnh đó trong tiến trình chẩn đoán của họ. Cách đây nhiều năm, cha Candido trừ quỷ cho một thanh niên đã được một bác sĩ tâm lý chẩn đoán là mắc chứng động kinh. Vị bác sĩ này đã chấp nhận lời mời đến quan sát người bệnh trẻ của ông ta trong suốt thời gian trừ quỷ. Khi cha Candido lấy tay chạm vào đầu của người thanh niên, anh ta ngã xuống đất. Vị bác sĩ nhanh nhẩu nêu nhận xét: "Thưa cha, cha có nhìn thấy rõ ràng là chúng ta đang đối phó với cơn động kinh không?" Cha Candido lại cúi xuống đặt tay trên đầu anh ta lần nữa. Anh ta nhảy lên và đứng yên không động đậy. Cha Candido hỏi: "Những người động kinh có làm thế này không? - "Không, không bao giờ", bác sĩ trả lời, rõ ràng có thái độ xuống nước. Cuối cùng cha Candido đã dùng phép trừ quỷ chữa khỏi hoàn toàn cho người thanh niên đó, trong khi nhiều năm qua, các bác sĩ và những toa thuốc - chưa kể tiền thù lao - đã chỉ làm anh ta thêm trầm trọng.
Ở đây chúng ta chạm vào một vấn đề khó khăn: trong các trường hợp khác, việc chẩn đoán đòi hỏi sự hợp tác giữa các lãnh vực chuyên môn khác nhau, như chúng tôi sẽ chứng minh ở những phân tích cuối cùng. Không may, những người mất tiền cho những sai lầm của các chuyên gia luôn luôn là những người bệnh và cũng thường hay bị tán gia bại sản vì những sai lầm y khoa.
Tôi rất cảm kích những nhà khoa học, dù là những người không tin, nhưng cũng biết nhận ra những giới hạn của khoa học của họ. Giáo sư Emilio Servadio, là một thầy thuốc tâm thần, một nhà phân tâm học, và là một nhà siêu tâm lý học nổi tiếng quốc tế, đã cho một bài phát biểu rất hay trên đài Vatican, vào ngày 2.2.1975 như sau:
Khoa học phải ngừng lại khi chạm trán với điều không thể được cắt nghĩa hoặc được chứng minh bằng những phương pháp đã được biết. Một số những giới hạn không thể nhận diện được cách chính xác bởi vì chúng ta không đang đối phó với những hiện tượng vật lý. Tôi tin rằng mỗi khoa học gia ý thức trách nhiệm của mình thì cũng biết rằng các dụng cụ của mình vẫn có giới hạn. Khi chạm đến sự quỷ ám tôi có thể chỉ nói riêng mình chứ không nhân danh khoa học. Tôi đã nhìn thấy một trường hợp sự dữ và sự phá hoại được gây nên do một số hiện tượng có những nét đặc trưng thực sự mà không thể lầm được vì những hiện tượng đó đã được giải quyết bởi một nhà khoa học như một nhà siêu tâm lý, hoặc một bác sĩ tâm thần - chẳng hạn, khi chúng tôi đối phó với những yêu tinh hoặc những hoạt động tương tự. Đó là muốn cố gắng so sánh một cậu trai độc ác với một kẻ tội phạm ác dâm. Có sự khác nhau mà không thể nào đo lường được bằng những dụng cụ nhưng có thể cảm nhận được.Trong những tình huống này tôi tin rằng một người làm khoa học phải thừa nhận sự hiện diện của những quyền lực mà không thể được điều khiển bởi khoa học và khoa học không thể được gọi để xác định.
PHỤ CHƯƠNG
Sợ ma quỷ? Thánh Têrêsa Giêsu trả lời:
Tôi xin cống hiến một đoạn văn trích từ tự truyện của thánh Têrêsa Avila để chống lại sự sợ hãi ma quỷ một cách thái quá. Đó là một đoạn văn có sức củng cố, trừ khi chính chúng ta mở cửa cho ma quỷ. (từ cuốn The Book of Her Life, chap. 25 nos. 19-22, trong The Collected Works of St.Teresa of Avila, trans. Kieran Kavanaugh, O.C.D., và Otilio Rodriguez, O.C.D., vol. 1, 2d ed. [Washington, D.C.: ICS Publications, 1987])
Nếu Chúa là Đấng toàn năng, như tôi thấy và biết Ngài là như thế, và nếu ma quỷ là những nô lệ của Ngài (và không có gì để hồ nghi về vấn đề này, vì đó là vấn đề đức tin), thì chúng có thể làm điều gì xấu cho tôi được, khi tôi là tôi tớ của vị Chúa và Vua này. Tại sao tôi lại không có can đảm dấn thân vào cuộc chiến chống toàn thể hoả ngục?
Tôi cầm Thánh giá trong tay, và tôi cảm thấy thực sự Thiên Chúa đã ban cho tôi can đảm bởi vì trong một thời gian ngắn tôi đã thấy rằng tôi đã là một con người khác và tôi không còn sợ phải đích thân chiến đấu với chúng; vì tôi nghĩ rằng với Thánh giá tôi có thể dễ đàng chiến thắng tất cả bọn chúng. Thế nên tôi đã nói: "Nào tất cả tụi bay hãy lại đây, tao là nữ tì của Chúa, tao muốn xem xem tụi bay có thể làm gì được tao."
Tôi thấy chắc chắn rằng chúng đã sợ tôi, vì tôi vẫn bình tĩnh và không sợ chúng chút nào. Mọi nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy đã tan biến. Vì mặc dù đôi khi tôi đã nhìn thấy chúng, như tôi sẽ kể lại sau, tôi cũng không còn sợ bọn chúng chút nào nữa; đúng hơn là bọn chúng sợ tôi. Chúa muôn loài đã thực sự ban cho tôi có oai quyền trên chúng; tôi coi chúng không hơn những con ruồi và chẳng thèm chú ý đến. Tôi nghĩ chúng là những kẻ nhút nhát đến nỗi khi chúng thấy chúng ít được kiêng nể, thì sức mạnh của chúng cũng tiêu tan. Những tên kẻ thù này không dám tấn công trực tiếp vào ai, trừ những người mà chúng thấy đầu hàng chúng, hoặc khi Thiên Chúa cho phép chúng làm như vậy vì lợi ích lớn lao của các tôi tớ Ngài, những người mà chúng cám dỗ và hành hạ. Xin Chúa ban cho chúng con biết kính sợ Đấng chúng con phải sợ và cho chúng con hiểu biết rằng một tội nhẹ có thể làm hại cho chúng con hơn là sức mạnh của tất cả hoả ngục hợp lại - vì thực sự là thế.
Nếu ma quỷ làm được cho chúng ta khiếp sợ, chính là tại chúng ta đã tự làm cho mình hoảng sợ bởi gắn bó với vinh dự, của cải, thú vui. Lúc đó chúng gây tổn hại cho chúng ta rất nhiều, khi chúng liên kết với chúng ta - vì chúng ta yêu thích và ước muốn những cái đáng lẽ ra phải ghét bỏ nên chúng ta tự phản lại chính mình. Vì chúng ta làm cho chúng chống lại chúng ta bằng vũ khí của chính chúng ta, tức là trao cho chúng cái mà chúng ta đang cần để tự phòng vệ. Đây là điều hết sức đáng tiếc. Nhưng nếu chúng ta ghét bỏ mọi sự vì Chúa và chúng ta ôm ấp Thánh giá và thực sự cố gắng phụng sự Chúa, thì ma quỷ sẽ chạy trốn những chân lý này như trốn bệnh dịch vậy. Ma quỷ yêu sự dối trá và là chính sự dối trá. Nó không thể đồng hành với bất cứ ai bước đi trong chân lý. Khi nó thấy trí khôn của một người ra tối tăm, nó sẽ giúp cho trở nên mù loà hoàn toàn. Nếu ma quỷ thấy ai mù tối đi tìm an ủi nơi của phù vân (những sự thế gian này đều giống trò trẻ con và đều là phù vân), thì nó coi người đó như trẻ con, đối xử với họ như với trẻ con và dám bắt nạt họ không phải một lần nhưng là nhiều lần.
Xin Chúa đừng để con vào số những người này, nhưng xin Ngài thương cho con biết tìm an ủi ở nơi cái gì thực là an ủi, vinh dự ở nơi cái gì thật là vinh dự, và lấy làm vui trong cái gì thực là niềm vui chứ không lẫn lộn; và tất cả ma quỷ chẳng có giá trị gì, bởi vì chúng sẽ khiếp sợ con. Tôi không hiểu những nỗi sợ khiến người ta kêu: "Ma quỷ? Ma quỷ!" khi đáng lẽ người ta phải nói: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" và khiến cho ma quỷ phải run sợ. Đúng vậy, vì chúng ta biết rằng ma quỷ không thể quấy rối được nếu Chúa không cho phép nó. Có gì mà phải sợ cơ chứ? Chắc chắn tôi sợ những người khiếp ma quỷ hơn sợ chính ma quỷ, vì nó không thể làm gì được tôi. Còn họ, đặc biệt khi họ là những vị giải tội thì họ có thể gây ra những xáo trộn nghiêm trọng; tôi đã phải trải qua nhiều năm chịu những thử thách lớn lao như thế, đến nỗi bây giờ tôi lấy làm ngạc nhiên không hiểu sao tôi đã có thể chịu đựng được như vậy. Xin chúc tụng Chúa, Đấng đã giúp đỡ con hữu hiệu như thế!
Tác giả: Lm. Gabriele AmorthMột hôm một vị giám mục gọi tôi và yêu cầu trừ quỷ cho một người nọ. Thoạt tiên tôi trả lời rằng chính bổn phận của ngài là phải bổ nhiệm một nhà trừ quỷ. Ngài đáp lại rằng ngài không thể tìm thấy một linh mục nào chấp nhận bổn phận đó. Không may, đây là một việc thường xảy ra. Thường các linh mục không tin vào việc trừ quỷ, nhưng nếu vị giám mục trao cho họ chức vụ trừ quỷ, thì họ cảm thấy cứ như là hàng ngàn tên quỷ đè lên họ và họ từ chối. Nhiều lần tôi đã viết rằng: khi tôi giải phóng các linh hồn khỏi tay Satan nhờ việc giải tội thì khiến cho nó căm giận nhiều hơn là khi tôi giải thoát các thân xác nhờ việc trừ quỷ. Thực ra, chúng tôi làm ma quỷ giận dữ hơn nhờ việc rao giảng, bởi vì đức tin phát sinh nhờ lời Chúa. Do đó, một linh mục có can đảm rao giảng và giải tội thì không nên sợ trừ quỷ.
Lêô Bloy đã viết những lời nóng nảy chống các linh mục từ chối trừ quỷ. Balducci trích dẫn những lời ấy trong cuốn Il diavolo (Piemme, p. 233): "Các linh mục hầu hết không bao giờ dùng quyền năng trừ quỷ bởi vì họ thiếu đức tin và sợ ma quỷ căm phẫn." Điều này cũng đúng; nhiều người sợ bị trả thù và quên rằng ma quỷ đã gây ra tất cả sự tổn thất khi mà Thiên Chúa cho phép nó; chúng ta có thể vượt qua được mà không cần phải ký hòa ước với nó! Tác giả viết tiếp: "Nếu các linh mục đã mất đức tin đến độ không tin vào quyền năng trù quỷ của mình và không dùng quyền ấy chút nào nữa, thì đây là nỗi bất hạnh ghê gớm, một sự lừa dối tàn bạo dẫn đến sự bỏ bê không thể vãn hồi, để mặc cho những kẻ thù tồi tệ nhất của các linh hồn bất hạnh đang nằm đầy trong các nhà thương và họ đã bị cho là nạn nhân của chứng cuồng loạn." Những lời chua chát nhưng là sự thật. Đó là trực tiếp phản bội lệnh truyền của Đức Kitô.
Trả lời cho cuộc gọi điện thoại của vị giám mục đó, tôi thưa ngài rằng nếu ngài không tìm được một linh mục, thì chính ngài có trách nhiệm phải làm việc trừ quỷ. Tôi nghe thấy ngài trả lời rất vô tư tự nhiên: "Tôi ư? Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu." Tôi đã trả lời với những từ mà cha Candiđo đã dùng với tôi khi tôi bắt đầu học nghề: "Bắt đầu bằng việc đọc những điều chỉ dẫn trong sách Nghi thức và đọc những kinh đã được chỉ định trên người xin trừ quỷ."
Đây là điểm khởi đầu. Sách Nghi thức trừ quỷ bắt đầu bằng hai mươi mốt qui tắc mà nhà trừ quỷ phải theo. Dù cho những qui tắc này được viết từ năm 1614 cũng không sao; những hướng dẫn này - nó có thể được mở rộng ra - đầy sự khôn ngoan và ngày nay vẫn còn hữu hiệu. Sách Nghi thức cũng cảnh giác nhà trừ quỷ đừng dễ tin vào sự hiện diện của ma quỷ, và đưa ra hàng loạt các luật lệ cả để giúp nhận ra sự hiện diện của quỷ ám thực và hướng dẫn cách cư xử của nhà trừ quỷ.
Sự bối rối của vị giám mục ("tôi không biết phải bắt đầu từ đâu") là đúng. Chúng ta không thể ứng khẩu một cuộc trừ quỷ. Chỉ định một bổn phận như thế cho một linh mục bất kỳ thì cũng giống như ra lệnh cho một người nào đó làm một ca phẫu thuật sau khi đọc một cuốn sách về vấn đề đó. Có quá nhiều điều được viết trong sách, nhưng học được chỉ nhờ thực hành. Đó là lý do tại sao tôi quyết định công bố những kinh nghiệm mà tôi đã đạt được dưới sự hướng dẫn dầy dạn kinh nghiệm của cha Candido, dù tôi nhận ra rằng điều tôi sẽ nói cũng chưa đủ. Vì đọc là một chuyện, nhưng nhận ra được lại là một chuyện khác. Tuy nhiên, điều tôi sẽ nói không thể tìm thấy trong bất cứ cuốn sách nào khác.
Thực ra, điểm bắt đầu rất khác nhau. Khi một người đến xin trừ quỷ, hoặc do gia đình hay bạn bè mang đến, người ta bắt đầu với một sự khám xét để xác định xem có hay không có cơ sở để tiến hành việc trừ quỷ. Những chẩn đoán có thể được thực hiện chỉ bởi một sự xem xét như thế. Do đó, người ta bắt đầu bằng cách nghiên cứu những triệu chứng được trình bày bởi người ấy hoặc thân nhân họ, cũng như nguyên nhân có thể có của chúng.
Người ta bắt đầu với những triệu chứng thể lý. Hai khu vực rất hay bị mắc những ảnh hưởng ma quỷ là đầu và bao tử. Thêm vào chứng nhức đầu trầm trọng và không còn nhạy cảm với các mệnh lệnh, những triệu chứng gồm có sự đột nhiên mất khả năng học hành. Đặc biệt, người trẻ là người không bao giờ có vấn đề ở nhà trường, bỗng dưng không thể học hành chút nào nữa, và khả năng tập trung của họ biến mất. Những dấu hiệu được liệt kê trong Sách Nghi Thức chỉ giới hạn vào những biểu hiện quỷ ám nổi bật nhất, như là khả năng nói và hiểu được những tiếng lạ một cách hoàn hảo, biết những điều bí ẩn hoặc những việc từ xa hay biểu lộ sức mạnh thể lý siêu phàm. Như tôi đã đề cập, tôi có thể nhận được những dấu hiệu này chỉ trong khi làm phép (đây là cách mà tôi luôn luôn căn cứ vào để trừ quỷ), chứ không bao giờ biết trước. Thường thường người ta nói cho tôi biết về cách hành xử kỳ lạ và bạo lực. Một triệu chứng tiêu biểu của những ảnh hường ma quỷ là sự căm ghét sự thánh thiêng. Đối với người hay cầu nguyện thì đột nhiên bỏ cầu nguyện, những người khác thì ngưng đi đến nhà thờ và trở nên tức giận; một số người bỗng dưng có hành vi báng bổ bạo hành chống lại ảnh thánh. Hầu như chúng tôi luôn luôn phải đối phó với cách cư xử phản xã hội, như sự giận dữ chống lại những người họ hàng và bạn bè quen biết, và nhiều kiểu hành xử kỳ cục khác.
Không cần phải nói, trừ vài trường hợp ngoại lệ, những người đến gõ cửa của nhà trừ quỷ thì thường cũng đã cố gắng mọi cách có thể tìm đến với y khoa và mọi phương thuốc. Do đó, cũng dễ dàng cho nhà trừ quỷ khám phá ra những chẩn đoán y khoa, liệu pháp nào đã được thử và kết quả ra sao.
Khu vực khác nữa thường bị mắc những ảnh hưởng ma quỷ là cuống bao tử, ngay ở dưới xương ức ở chỗ đó, chúng tôi tìm thấy những sự đau buốt nhức nhối không cách chi chữa được. Nếu cơn đau di chuyển, bấy giờ tới toàn thể bao tử, rồi đến thận, sau đó là buồng trúng... bất chấp những hiểu biết và liệu pháp của y sỹ là dấu hiệu thông thường của ảnh hường ma quỷ.
Chúng tôi có thể nói rằng "một trong những nhân tố xác định sự quỷ ám là sự vô hiệu lực của y khoa", trong khi việc làm phép tỏ ra rất hữu hiệu. Tôi đã trừ quỷ cho Mark, một thanh niên là nạn nhân bị quỷ ám trầm trọng. Anh ta mắc bệnh đã lâu và đã phải đau đớn nhiều bởi những phương thức chữa bệnh tâm thần, đặc biệt là chạy điện, mà vẫn không thuyên giảm chút nào. Bác sĩ cho anh uống thuốc ngủ với một liều lượng lớn mà anh ta vẫn không thể ngủ được suốt ngày cũng như đêm. Anh ta đi lang thang trong bệnh viện dáng vẻ đờ đẫn, với cặp mắt mở thao láo. Cuối cùng anh ta đã đến với tôi và có kết quả tích cực ngay tức khắc.
Sức mạnh siêu phàm cũng có thể là dấu hiệu của quỷ ám. Một người điên trong bệnh viện tâm thần có thể được chế ngự bằng cách trói lại, nhưng một người bị quỷ ám thì không thể trói buộc được, anh ta có thể bẻ gẫy xiềng xích bằng sắt, như người đàn ông ở Gerasa đã làm trong Phúc Âm. Cha Candido đã kể cho tôi về một cô gái bề ngoài có vẻ yếu ớt mảnh khảnh, thế mà trong lúc trừ quỷ, phải có bốn người thanh niên khỏe mạnh mới chế ngự được cô ta. Cô ta bứt đứt mọi thứ dây trói, ngay cả một số loại dây da lớn người ta dùng để trói buộc cô. Một lần, người ta lấy một sợi dây thừng lớn trói chặt cô vào chiếc giường sắt, nhưng cô đã bẻ gẫy một số thanh sắt ở thành giường.
Nhiều lần bệnh nhân - và họ hàng của họ, nếu toàn gia đình bị hành hạ - nghe thấy những tiếng động lạ, tiếng những bước chân trong phòng, tiếng mở và đóng cửa, những đồ vật biến mất và lại xuất hiện trong những chỗ ít được để ý nhất, và những tiếng đập mạnh trên đồ đạc và các bức tường. Khi tôi tiến hành điều tra các nguyên nhân, tôi luôn luôn hỏi xem khi nào các sự cố bắt đầu, chúng có bị ràng buộc với một cái gì đó cụ thể không, bệnh nhân có tham dự vào các buổi gọi hồn không, có tiếp cận với các tay thầy mo không, và trong trường hợp có câu trả lời tích cực, thì các sự việc đã được tiến hành thế nào.
Theo đề nghị của một số bạn bè và người thân, người ta có thể mở tung hết gối và nệm của nạn nhân, và tìm thấy ở đó nhiều đồ vật rất hay: như là những sợi chỉ màu, những búi tóc, bím tóc, những đồng bạc bằng sắt hoặc gỗ, chuỗi hạt hoặc những giải ruy băng được cột với những nút rất chặt, những hình nộm, hình dáng con vật, những cục máu, hoặc những hòn sỏi; đó là một bằng chứng chắc chắn của yêu thuật.
Nếu sau khi xem xét tỉ mỉ các yếu tố này, tôi xác tín là có sự can thiệp của ma quỷ, tôi sẽ tiến hành việc trừ quỷ.
Bây giờ tôi xin đưa ra một số thí dụ. Tôi sẽ thay đổi tên và những gì có thể làm lộ danh tính các nhân vật. Martha và chồng nàng đến xin tôi làm phép. Họ đến từ khá xa và phải tốn kém nhiều cho cuộc hành trình. Đã nhiều năm Martha đã được các bác sĩ thần kinh điều trị mà không kết quả. Sau vài câu hỏi, tôi nhận ra rằng tôi có thể tiến hành việc trừ quỷ, dù đã có những người khác đã cố gắng vô ích để trừ quỷ cho nàng. Lúc bất đầu, nàng ngã xuống đất và tỏ ra yếu lả. Khi tôi tiến hành với những kinh khai mạc, nàng thỉnh thoảng kêu rêu: "Tôi muốn việc trừ quỷ thực sự chứ không muốn những thứ này!" khi tôi bắt đầu với phần đầu của việc trừ quỷ bắt đầu bằng những lời "Excizo te" (mi hãy ra khỏi), nàng mãn nguyện và bình tĩnh lại; rõ rằng nàng đã nhớ lại những lời này từ những kinh nghiệm trước. Rồi nàng bắt đầu kêu đau mắt. Đó là những hành động và những dấu hiệu không phải người bị quỷ ám. Khi nàng trở lại, nàng chẳng nhận thấy điều gì ích lợi từ việc trừ quỷ của tôi. Trước khi để cho nàng ra về, vì tôi vẫn có một số hoài nghi, tôi đã đưa nàng tới cha Candido. Sau khi đặt tay lên đầu nàng, ngài lập tức bảo tôi rằng ma quỷ không động gì đến nàng, đó chỉ là vấn đề bệnh tâm thần chứ không phải quỷ ám.
Pierluigi, mười bốn tuổi, rất to béo so với tuổi của cậu ta. Cậu không thể học hành; cậu làm cho thày giáo và các bạn học phát khùng lên. Cậu không thể ở lâu bên ai mà không gây hấn. Một trong những nét đặc trưng là: khi cậu ngồi xếp bằng trên mặt đất, thì không có sức mạnh nào nhấc cậu lên khỏi mặt đất được. Cứ như là cậu đã hóa ra chì vậy. Sau khi dùng một số liệu pháp y khoa không kết quả, người ta mang cậu ta đến cùng cha Candido. Sau khi đã xác định được đó là quỷ ám thực sự, ngài đã bắt đầu trừ quỷ cho cậu ta. Một nét đặc trưng khác của Pierluigi là: mặc dù cậu ta không gây với ai, thì những người chung quanh cũng trở nên căng thẳng và bắt đầu hò hét; họ không kiểm soát được mình. Một hôm cậu ngồi chân bắt chéo nhau trên đầu cầu thang tầng thứ ba trong chung cư. Những người thuê nhà khác đi lên đi xuống trên cầu thang và muốn nhắc cậu tránh ra nhưng cậu không chịu. Đến một lúc, tất cả những người thuê nhà của tòa nhà ấy tụ tập nhau trên lồng cầu thang, trên một đầu cầu thang khác và đã la hét chửi máng om sòm như những người bị quỷ ám chống lại cậu Pierluigi. Một số người gọi cảnh sát; cha mẹ cậu gọi cha Candido, ngài đã đến trước khi cảnh sát đến và đã tán gẫu với cậu ta để thuyết phục cậu vào phòng của cậu. Ba người cảnh sát trẻ trung khỏe mạnh đã đến, họ nói với cha: "Cha tránh ra đi, đây là công việc của chúng tôi". Rồi họ cố gắng kéo Pierluigi lên, nhưng họ không thể làm cho cậu nhúc nhích được lấy một phân. Hết sức ngạc nhiên, mồ hôi nhễ nhãi, họ không biết phải làm gì nữa. Cha Candido bảo họ: "Yêu cầu mọi người trở về phòng của mình," và trong phút chốc, bầu khí yên lặng trở lại. Rồi ngài bảo mấy anh cảnh sát: "Các anh lùi xuống một bậc thang và quan sát." Họ vâng lời ngài. Cuối cùng, ngài bảo Pierluigi: "Em ngoan lắm: em đã không nói một lời, nhưng đã không cho ai lại gần. Nào, hãy về nhà với cha." Ngài cầm tay cậu và cậu đã đứng dậy đi theo ngài, hoàn toàn sung sướng, đến nơi cha mẹ cậu đang đợi chờ. Sau nhiều lần trừ quỷ, Pierluigi đã tiến triển đáng kể nhưng không được giải thoát hoàn toàn.
Một trong những trường hợp khó khăn nhất mà tôi còn nhớ liên quan đến một người đàn ông - một thời rất tai tiếng- ông ta đến với cha Candido trong nhiều năm để cha làm phép. Tôi cũng đi đến nhà ông ta, nơi ông đang bị ràng buộc, để làm phép cho ông. Tôi thực hiện việc trừ quỷ; ông ta không nói gì (ông bị một quỷ câm ám), và tôi không thể nhìn thấy một chút phản ứng nào. Sau khi tôi ra về, ông ta lại phản ứng rất hung bạo. Cung cách này thường vẫn hay xảy ra. Ông đã già và cuối cùng ông đã được giải thoát hoàn toàn, ông đã trải qua vài tuần lễ cuối cùng của cuộc đời ông với sự thanh thản.
Một bà mẹ lo sợ vì thấy những triệu chứng không bình thường nơi con trai mình. Thỉnh thoảng cậu con trở nên giận dữ và la hét như một người khùng; anh ta hay chửi rủa và khi bình tĩnh lại, anh không hề nhớ chút gì về những hành vi của mình đã làm. Anh không bao giờ cầu nguyện và cũng không đồng ý để cho linh mục làm phép. Một hôm, trong khi người con đi ra xưởng làm việc và, như thường lệ, anh mặc chiếc áo khoác thợ máy, ở nhà bà mẹ đem tất cả các áo quần của anh ta đi làm phép theo những lời kinh trong sách nghi thức (trừ quỷ). Khi người con từ xưởng trở về nhà không nghi ngờ gì anh cởi chiếc áo khoác bẩn ra để thay quần áo khác, sau vài giây, anh giận dữ xé toạc quần áo ra và mặc lại chiếc áo bẩn. Anh ta không bao giờ chịu mặc y phục đã làm phép. Trường hợp này rõ ràng cho thấy là anh ta cần phải được trừ quỷ.
Hai anh em trẻ đã cầu đến phép lành của tôi bởi vì họ hay bực bội bởi những vấn đề sức khỏe và những tiếng động lạ trong nhà. Những tiếng động này xảy ra phần lớn từng khoảnh khác cố định trong đêm. Đang khi làm phép, tôi để ý thấy một số phản ứng tiêu cực, và tôi khuyên họ năng lãnh nhận các bí tích và cầu nguyện tha thiết hơn nữa. Tôi cũng khuyến khích họ dùng ba dấu tích thánh (nước, dầu, và muối) và đã mời họ trở lại. Khi hỏi họ, tôi khám phá ra rằng những sự cố này đã bát đầu khi cha mẹ họ quyết định đem ông nội về nhà (vì ông sống cô đơn). Ông nội này chuyên môn nguyền rủa báng bổ mọi người và mọi thứ. Cha Tomaselli, một nhà trừ quỷ hiện nay đã qua đời, đã từng nói rằng đôi khi chỉ một người ăn nói báng bổ cũng đủ phá tan toàn thể gia đình với những sự hiện diện của ma quỷ. Trường hợp này đã minh chứng quan điểm của ngài.
Cùng một tên quỷ có thể hiện diện trong hơn một người. Trong trường hợp này, tên quỷ đang ám cô Pina nói rằng hắn ta sẽ rời bỏ cô ta đêm nay. Cha Candido, mặc dù biết rằng quỷ luôn luôn nói dối, cũng đã xin các nhà trừ quỷ khác giúp ngài, thỉnh thoảng có mặt cả bác sĩ nữa. Đôi khi, để giữ cho cô gái được yên, họ đặt cô xuống trên cái bàn dài. Cô ta vặn mình và ngã lăn xuống đất, nhưng cuối cùng, trước khi đụng tới sàn nhà cô rơi xuống chậm lại, dường như có một bàn tay đỡ cô ta lên, và cô ta không bao giờ bị thương. Sau khi làm việc trên cô ta suốt buổi chiều và đến nửa đêm, các nhà trừ quỷ quyết định bỏ cuộc. Sáng hôm sau, cha Candido đang trừ quỷ cho một bé trai lên sáu hay bảy tuổi. Tên quỷ ở trong bé trai chế nhạo vị linh mục: "Tối hôm qua ông làm việc vất vả mà chẳng đạt được gì cả. Chúng tôi chiến thắng! Và tôi cũng ở đó đó!"
Một lần, trong khi đang trừ quỷ cho một bé gái, cha Candido hỏi quỷ tên là gì. Nó trả lời: "Zebulun". Khi trừ quỷ xong, vị linh mục bảo cô gái đến trước trước nhà tạm cầu nguyện. Khi em gái kế tiếp đến để được trừ quỷ, cha Candido cũng hỏi tên của quỷ này. Nó cũng trả lời như thế: "Zebulun". Linh mục hỏi: "Mi cũng chính là tên quỷ nhập vào cô gái kia ư? Nếu là mi, hãy cho ta một dấu hiệu. Nhân danh Thiên Chúa ta lệnh cho mi trở lại cô gái mà mi vừa mới rời bỏ." Cô gái thứ hai thốt lên một tiếng hú và rồi im bặt và tỏ ra bình tĩnh. Trong khi đó, những người đang ở trong phòng nghe cô gái thứ nhất đang cầu nguyện trước nhà tạm hú lên. Rồi cha Candido ra lệnh: "Trở lại đây." Lập tức, cô gái thứ hai lại bắt đầu hú lên, và cô kia cầu nguyện lại như thường. Trong những trường hợp này rõ ràng là quỷ.
Sự kiện quỷ ám cũng được tỏ rõ bởi một số câu trả lời sâu sắc, đặc biệt khi được trả lời bởi trẻ con. Cha Candido đã hỏi một bé trai mười một tuổi một số câu hỏi hóc búa sau khi đã biết chắc là em bị quỷ nhập. Ngài hỏi: "Trên trái đất này có nhiều nhà khoa học vĩ đại, một số người trí khôn rất sắc sảo, họ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện hữu của chúng mày. Mày nghĩ gì về điều đó? Và đứa trẻ lập tức trả lời: "Đó là những người không thông minh lắm đâu! Họ chỉ là những người rất tầm thường!" Và cha Candido nói thêm, ám chỉ về các ma quỷ: "Có những kẻ khác hiểu biết mà lại cố tình muốn chối Thiên Chúa. Mày gọi những kẻ này là gì? Đứa nhỏ bị quỷ ám nhảy lên giận dữ: "Hãy cẩn thận. Hãy nhớ rằng chúng tôi đã muốn đòi cho được quyền độc lập với Thiên Chúa. Chúng tôi đã nói với ngài tiếng Không vĩnh viễn." Nhà trừ quỷ tiếp tục: "Hãy cắt nghĩa cho ta biết bọn mày đòi được quyền độc lập với Thiên Chúa nghĩa là gì, khi chúng mày không là cái gì nếu tách lìa khỏi Thiên Chúa, cũng như ta cũng không là gì. Cũng như trong con số 10, con số 0 lại muốn tách ra khỏi con số 1, thì nó sẽ trở nên cái gì? Điều gì sẽ được thực hiện? Nhân danh Thiên Chúa, ta hỏi mi: hãy nói cho ta mi đạt được cái gì tích cực? Nào, nói đi!" Tên quỷ giận dữ, vặn mình nhỏ rãi ra và khóc một cách khủng khiếp, một cách mà một đứa trẻ mười một tuổi không thể nào có được, và nó nói: "Đừng thử tôi kiểu này! Đừng thử tôi thế này!" Nhiều người hỏi làm thế nào chúng tôi có thể chắc là đang nói với ma quỷ. Trong trường hợp như thế này thì không thể hồ nghi được.
Đây một trường hợp khác. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một cô gái mười bảy tuổi. Cô ta là một nông dân nói tiếng địa phương của thị trấn của cô; tiếng Ý của cô rất kém. Hai vị linh mục khác cũng có mặt trong lúc trừ quỷ. Khi đã xác định được sự hiện diện của Satan rồi, hai linh mục này tiếp tục hỏi nàng. Cha Candido, trong khi đọc các kinh bằng La ngữ, đã bắt đầu thêm những tiếng Hy-lạp này: "Câm miệng? Cút đi ngay!" lập tức cô gái quay lại phía ngài và nói: "Tại sao ông lại ra lệnh cho tôi im lặng? Đúng hơn hãy lệnh cho hai vị đang tiếp tục hỏi tôi đây này!"
Nhiều lần, cha Candido đã chất vấn những tên quỷ trong những người thuộc mọi lứa tuổi; tuy nhiên, ngài thích kể về những buổi chất vấn nơi trẻ con hơn, bởi vì rõ ràng những câu trả lời của chúng vượt quá mức tuổi của chúng, do đó đã chứng minh sự hiện diện chắc chắn của ma quỷ.
Một hôm cha Candido đã hỏi một em gái mười ba tuổi (bị quỷ ám): "Hai người thù địch nhau, ghét nhau suốt cuộc sống, ghét nhau cho tới lúc chết, và cả hai phải xuống hỏa ngục. Vậy bấy giờ họ chia sẻ với nhau mối tương quan ra sao, vì họ sẽ phải ở với nhau cho đến muôn đời? Quỷ trả lời: "Ông ngu quá! Xuống đó mỗi người sống co cụm lại trên chính mình và bị vò xé bởi những hối tiếc. Không có ai tương quan với ai, mỗi người đi tìm chính mình trong nỗi cô độc sâu thẳm và khóc than tuyệt vọng vì những sự dữ mình đã phạm. Nó giống như một nghĩa địa."
Với những "bệnh nhân" này, nên dùng uyển ngữ (euphmistic: nói trại ra) có thể ích lợi hơn. Do đó, chúng tôi luôn luôn gọi việc trừ quỷ là "làm phép". Sự hiện diện của ma quỷ, một khi đã được xác nhận, thì được gọi là "sự tiêu cực". Cũng có lợi hơn khi đọc các kinh bằng tiếng Latinh. Tất cả điều này là để tránh dùng những từ gây sợ hãi và do đó khó đạt được những điều mong muốn. Có những người có nỗi ám ảnh là bị quỷ ám; trong những trường hợp này, chúng ta có thể hầu như chắc chắn là họ không bị. Trước một số người trong tình trạng trí khôn bối rối, việc trừ quỷ cho anh ta, khiến anh ta có thể tin chắc mình bị quỷ ám, và sẽ không có ai bao giờ có thể thuyết phục anh ta cách khác. Khi tôi vẫn chưa biết rõ một người, tôi chỉ nhấn mạnh rằng tôi làm phép cho người ấy, ngay cả khi tôi đang thực hành một việc trừ quỷ; đôi khi, tôi chỉ đơn giản là ban phép lành cho bệnh nhân theo sách nghi thức. Các phép đầy đủ bao gồm nhiều kinh khởi dẫn, tiếp theo sau là ba lần trừ quỷ thực sự. Chúng khác nhau, bổ sung cho nhau và đi theo một trình tự hợp lý trước khi đến sự giải thoát. Cho dù chúng được soạn ra vào năm 1614 thì cũng ít thành vấn đề. Thực sự đó là kết quả của một kinh nghiệm lâu dài và trực tiếp. Alcuinus, người đã viết nên chúng, đã kiểm tra rất kỹ, cân nhắc từng câu rất cẩn thận đối với ảnh hưởng mà chúng có trên việc quỷ ám. Có một vài thiếu sót rất nhỏ Cha Candido và tôi sửa đã chữa lại. Chẳng hạn, trong đó không đề cập đến Đức Maria. Chúng tôi đã thêm điều này vào cả ba lần trừ quỷ, bằng cách dùng những từ mà Đức Thánh Cha Lêo XIII đã dùng để trừ quỷ. Vì những cách trừ quỷ của Alcuinus có từ hồi thế kỷ thứ chín và thứ mười, nên những thiếu sót này là có thể hiểu được. Tôi đã nói rằng một việc trừ quỷ có thể kéo dài vài phút hay nhiều giờ. Lần đầu mới trừ quỷ cho một ai đó, cho dù chúng tôi nhận ra mình đang đương đầu với một sự "tiêu cực", thì tốt hơn là làm vắn tắt. Thường thường giới hạn trong một vài kinh khởi đầu và làm một trong ba lần trừ quỷ; tôi thường chọn lần thứ nhất bởi vì nó trình bày cơ hội xức dầu. Dù sách nghi thức không đề cập đến điều này - cũng như nó không đề cập đến nhiều điều khác - thì kinh nghiệm dạy chúng tôi biết rằng dùng dầu dự tòng trong khi đọc: "Sit nominis ti signo famulus tuus munitus " thì rất hiệu nghiệm. Trong khi làm việc này, chúng tôi đã được hứng khởi bởi việc xức dầu trong phép rửa tội. Ma quỷ cố gắng trốn ẩn, không bị phát hiện, cũng như không bị trừ khử. Do đó, lần đầu người ta ít nhận ra sự hiện diện của nó hoặc không nhận ra chút nào. Tuy nhiên, khi những cuộc trừ quỷ được tiếp tục thì bắt buộc nó sẽ phải lộ diện. Có nhiều cách để thúc nó, bao gồm việc xức dầu. Sách nghi thức không xác định tư thế của nhà trừ quỷ: một số người đứng, một số ngồi; một số ở bên phải, một số ở bên trái người bị quỷ ám, và một số người đứng đàng sau. Sách nghi thức chỉ nói rằng, bắt đầu bằng những lời: "Ecce crucem Domini" [này đây là Thánh giá của Chúa], chúng ta nên lấy viền của dây stola chạm vào cổ nạn nhân, và linh mục nên đặt tay mình trên đầu nạn nhân. Chúng tôi xin lưu ý rằng ma quỷ rất nhạy bén với năm giác quan (có lần nó nói: "Tôi nhập vào qua đường giác quan), và nhất là cặp mắt. Do đó, chúng tôi, cha Candido và các học trò của ngài, đạt hai ngón tay trên đôi mắt và nâng mí mắt lên vào những lúc đặc biệt trong khi đọc kinh. Hầu như luôn luôn, trong trường hợp quỷ hiện diện, đôi mắt dường như hoàn toàn trắng giã; chúng tôi khó có thể phân biệt rõ ràng con ngươi nằm trên hay phía dưới, dù với sự trợ giúp của cả hai bàn tay. Vị trí của con ngươi cũng chỉ cho thấy loại quỷ và những xáo trộn đang có mặt. Trong khi đang đặt câu hỏi, chúng tôi luôn luôn có thể xếp loại quỷ theo nét biệt phân được gợi hứng từ chương chín sách Khải Huyền. Ma quỷ rất thận trọng khi phải nói; chúng bị cưỡng bách phải nói, và chỉ làm như vậy trong những trường hợp hết sức nghiêm trọng, những trường hợp bị ám thực sự và hoàn toàn. Khi ma quỷ tự ý thích tán gẫu, thì đó là thủ đoạn để làm cho nhà trừ quỷ chia trí khỏi điều ông đang tập trung chú ý và để tránh khỏi phải trả lời những câu hỏi hữu ích khi người ta chất vấn chúng. Trong những câu hỏi của chúng tôi, chúng tôi phải tuân thủ theo những qui tác trong sách nghi thức: không bao giờ hỏi những câu hỏi vô ích hoặc do tính tò mò mà ra. Chúng tôi phải hỏi về tên, có những quỷ khác hay là không, và có bao nhiêu quỷ, khi nào và làm cách nào mà quỷ nhập vào thể xác đặc biệt đó, và khi nào nó sẽ ra. Chúng tôi phải tìm ra sự hiện diện của ma quỷ có do một sự bỏ bùa hay không, và những tính chất đặc biệt của loại bùa đó. Nếu người ta ăn hoặc uống phải những thứ độc dữ, họ phải mửa nó ra; nếu một số yêu thuật đang được giấu, thì quan trọng là phải được nói ra nơi đang được giấu, để nó có thể được đốt đi cách cẩn thận. Đang trong một cuộc trừ quỷ, nếu có quỷ hiện diện, có thể sẽ lộ ra chầm chậm từng giai đoạn hoặc bộc phát đột ngột. Sự hiểu biết của nhà trừ quỷ về cường độ và tính nghiêm trọng của con bệnh tăng dần dần. Dù có bị áp bức, bị ám ảnh hoặc bị quỷ nhập hay không; dù sự dữ đã bám rễ sâu hay mới sơ sài, thì cũng thật khó mà tìm được những lời văn làm sáng tỏ những phân biệt này. Tôi dùng mức đo này: nếu một người, trong khi đang được trừ quỷ, hoàn toàn rơi vào trạng thái hôn mê, thì chính quỷ nói qua miệng anh ta. Nếu anh ta di động thì chính là quỷ dùng chân tay của anh ta; và nếu lúc kết thúc cuộc trừ quỷ, anh ta không còn nhớ bất cứ điều gì, thì chúng ta có một trường hợp quỷ nhập: tức là, quỷ ở bên trong cá nhân đó và thỉnh thoảng hành động qua thân thể của người bị quỷ nhập. Cũng cần lưu ý rằng trong khi đang trừ quỷ, quỷ bị cưỡng bức - bởi năng quyền của lễ nghi - phải bộc lộ, nhưng hắn có thể vẫn tấn công người ấy vào bất cứ lúc nào khác, nhưng thường thường một cách không nghiêm trọng lắm. Nếu trong một cuộc trừ quỷ, một số phản ứng của bệnh nhân tỏ cho thấy một cuộc tấn công của quỷ, nhưng bệnh nhân vẫn còn ý thức, như là vẫn còn mơ hồ nhớ những lời nói và hành động, thì chúng ta đang ở trong sự hiện diện của sự quỷ hành. Trong trường hợp này quỷ không luôn luôn hiện diện trong thân thể của người ấy, nhưng nó tấn công từng lúc và gây ra những chứng bệnh về tâm thần lẫn thể lý. Tôi sẽ nói nhiều về hình thức tấn công thứ ba bên cạnh hai hình thức quỷ nhập và quỷ hành, đó là hình thức quỷ ám. Nó hệ tại sự không thể kiểm soát được những tư tưởng xấu luôn hành hạ nạn nhân, đặc biệt là về ban đêm, hoặc đôi khi xảy ra luôn luôn. Trong tất cả mọi trường hợp, việc chữa trị cũng giống nhau: cầu nguyện, chay tịnh, chịu các bí tích, sống đời sống Kitô giáo, bác ái, và trừ quỷ. Để nhận xét một căn nguyên sự dữ có thể, chúng tôi dùng một số nguyên tắc chỉ đạo chung chung chứ không đi vào chi tiết, bởi vì "cái tiêu cực" tức là ma quỷ có xu hướng tấn công con người trong năm lãnh vực. Những cuộc tấn công này nghiêm trọng hơn kém tùy theo nguồn gốc của chúng. Năm lãnh vực như sau: sức khỏe, việc làm ăn, tình cảm, thú vui cuộc đời, và ước muốn chết. Sức khỏe. Ma quỷ có quyền gây nên những bệnh về cả thể lý lẫn tâm thần. Tôi đã nói rằng hai khu vực bị ảnh hưởng thông thường nhất là đầu và bao tử. Thường thường, bệnh rất dai dẳng. Đôi khi cũng ngắn ngủi, chỉ sau một hồi trừ quỷ. Trường hợp này gồm có các bệnh dịch lây lan, các vết thương, vết bầm. Sách nghi thức gợi ý làm phép những khu vực bị ảnh hưởng, với dấu Thánh giá và vẩy nước phép. Nhiều lần tôi đã chứng kiến hiệu quả của việc chỉ lấy dây stola phủ lên và đặt tay lên khu vực bệnh. Nhiều lần các phụ nữ bị bệnh đau đớn, theo chẩn đoán siêu âm phải giải phẫu buồng trứng, nhưng trước khi đi giải phẫu họ đã đến với tôi, sau khi tôi ban phép lành cho họ cơn đau liền chấm dứt, khi đi siêu âm lại, chẳng thấy dấu hiệu bệnh đâu nữa, và cuộc giải phẫu đã được hủy bỏ. Cha Candido có thể liệt kê vô số những trường hợp ngài chỉ "làm phép" mà chữa rất nhiều bệnh trầm trọng, kể cả những bệnh ung bướu não đã được y khoa xác minh. Tôi phải cẩn thận xem xét những trường hợp này có thể chỉ xảy ra cho những người bị quỷ ám, và qua đó tôi muốn nói đến những trường hợp có nguồn gốc đáng nghi ngờ là ma quỷ. Tình cảm. Ma quỷ có thể gây ra thù oán lung tung, đặc biệt đối với những người yêu thương chúng ta nhất. Nó phá hoại hôn nhân gia đình, phá vỡ các giao ước; nó gây ra những cuộc xô sát, cãi cọ trong các gia đình nơi mà mọi người thực sự thương yêu nhau, và luôn luôn chỉ vì những lý do chẳng đâu vào đâu. Satan cũng tàn phá các tình bạn hữu; qua sự can thiệp của nó, nạn nhân cảm thấy khó chịu ở mọi nơi, bị mọi người tránh lánh, cuối cùng là chỉ muốn sống cô độc. Rồi tiếp theo sau là một sự xác tín mình hoàn toàn thiếu tình yêu và thiếu được hiểu biết, một sự trống rỗng tình cảm hoàn toàn đến nỗi lập gia đình là một chuyện không có thể. Và rất thường xảy ra một mối tương quan bạn bè đang phát triển và đầy hứa hẹn, bỗng dưng bị chấm dứt mà không có lý do nào cả. Công việc làm ăn. Không thể tìm được việc làm vì những chuyện đâu đâu, với những lý do thật vô lý dù khi xem ra chắc ăn có công việc. Cuối cùng nạn nhân có thể tìm được một việc làm nhưng lại bỏ mà bề ngoài chẳng có lý do nào cả, và lại tìm công việc khác, nhưng không đi phỏng vấn hoặc lại cũng bỏ cuộc như vậy chỉ vì những động lực vớ vẩn. Thân nhân của những con người bất hạnh này nghi ngờ nhân cách thiếu trách nhiệm hoặc bất thường. Tôi đã chứng kiến những gia đình hết sức giầu có lại rơi vào tình trạng nghèo cùng cực với những lý do không thể cắt nghĩa về mặt nhân loại. Những kỹ nghệ gia thành công đột nhiên một cách không thể cắt nghĩa phải đứng nhìn mọi sự tan thành mây khói. Hoặc những thương gia tinh khôn bắt đầu có những quyết định sai lầm này đến sai lầm khác, và kết quả là phá sản vì nợ nần. Lại nữa, những ông chủ các cửa hàng rất nổi tiếng cũng bị tai họa mất hết khách hàng. Khi ma quỷ làm ảnh hưởng đến vấn đề tiền bạc, thì việc tìm việc trở nên không thể, đang giầu bỗng hóa nghèo, và các công nhân viên trở nên thất nghiệp, mà luôn luôn chẳng có bất cứ lý do gì bề ngoài. Vui hưởng cuộc đời. Những bệnh tật về luân lý thể lý, sự cô độc tình cảm, và sự sụp đổ kinh tế sẽ đem tới thái độ bi quan đến nỗi đời sống chỉ được nhìn theo cách tiêu cực. Những người mắc phải như thế sẽ trở nên không thể lạc quan, hy vọng; cuộc đời xem ra hết sức chán nản, không lối thoát và không thể chịu nổi. Muốn chết. Giai đoạn thứ năm. Đây là mục tiêu cuối cùng của kẻ thù độc dữ: dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng và tự tử. Ở đây tôi cũng phải thêm ngay rằng khi chúng ta đặt mình dưới sự che chở của Giáo Hội, dù chỉ với sự trừ quỷ, thì giai đoạn thứ năm này cũng không xảy ra. Chúng ta dường như làm sống lại điều đã được cho phép làm khổ ông Gióp: "Này, ông ta ở trong quyền của ngươi, chỉ trừ mạng sống của ông ta thôi" (Jb 2,6). Tôi có thể kể ra nhiều trường hợp ở đây, hầu như với những sự can thiệp lạ lùng, Thiên Chúa cứu một số người khỏi tự tử. Tôi chắc rằng nhiều độc giả nhận ra năm giai đoạn này, với những mức độ mãnh liệt khác nhau. Tôi nói lại rằng hầu hết các bệnh nhân này có những nguyên nhân không liên quan đến sự can thiệp của ma quỷ; riêng chúng tôi không thể xác định được ai là người bị quỷ ám hoặc quỷ hành. Tôi sẽ cho hai thí dụ của giai đoạn thứ năm, hết sức nghiêm trọng, nạn nhân đi đến chỗ muốn chết và đã cố gắng tự tử. Tôi đã giúp một cô y tá, do một cơn khủng hoảng nghiêm trọng, cô ta đã có một tư tưởng tuyệt vọng vô lý: "Nếu tôi truyền máu sai cho bệnh nhân, tôi sẽ bị bắt, và tôi sẽ được an toàn ở trong tù." Mặc dù cô ta đã nghe theo và lên kế hoạch hành động; cô ta xác tín rằng mình đã truyền nhóm máu không đúng cho bệnh nhân. Rồi cô ta đã đi đến văn phòng của cô để chờ được bị bắt. Vài giờ đồng hồ trôi qua, sự truyền máu ấy lại hóa ra thành công, và cô y tá đã hối hận vì hành động của mình. Một thanh niên trẻ, đẹp trai tên là Giancarlo, hai mươi lăm tuổi, trông có vẻ khỏe mạnh cả thể xác lẫn tinh thần. Tuy nhiên, anh ta đã có một "tên quỷ nó hành hạ anh ta dữ dội. Việc trừ quỷ đã làm giảm bớt cho anh ta chút đỉnh nhưng chưa đủ. Một đêm anh ta quyết định chấm dứt tất cả, như anh ta đã cố gắng nhiều lần. Anh đi bộ dọc theo một đường rầy xe lửa, anh ngừng lại ở một khúc quanh rộng, và nằm xuống trên đường rầy trong một chiếc túi ngủ. Anh ta vẫn nằm nguyên ở đó được bốn hoặc năm giờ. Nhiều chuyến tàu lửa đã chạy cả hai hướng, nhưng mỗi chuyến tàu lại đi ở một đường ray khác đối diện với Giancarlo; có những lý do thách thức sự hiểu biết của con người. Họ đã nhận ra anh ta. Tôi hỏi cha Candido xem với những kinh nghiệm lâu dài của một nhà trừ quỷ, ngài đã để mất một người nào đã được làm phép mà đi tự tử chưa. Ngài đã bị mất một người, và câu chuyện như sau: một cô gái Roma, hết sức đáng thương do bị quỷ ám hoàn toàn đã đến xin ngài trừ quỷ. Cô ta bắt đầu cảm thấy nhẹ bớt đi nhiều, mặc dù cô ta thấy rằng thật là khó khăn để chiến đấu với cơn cám dỗ tự tử. Một hôm Mẹ cô đến với cha Candido; bà tin rằng con gái của bà chỉ tưởng tượng ra bệnh và chửi bới cô ta. Cho dù sự giải thích của cha Candido xem ra thuyết phục được người đàn bà, nhưng trong thực tế thì không như vậy. Một hôm, khi cô con gái thổ lộ cho Mẹ cô về nỗi day dứt của cơn cám dỗ dai dẳng muốn tự tử, người mẹ khốn nạn đã máng chửi cô ta như thường lệ: "Đồ điên, đồ vô tích sự; mày thậm chí chẳng có khả năng tự sát. Mày thử chết cho tao xem nào?" Nói rồi bà mở cửa sổ ra. Cô con gái nhảy xuống và chết tức thì. Đây chỉ là một trường hợp tự tử duy nhất trong số tất cả những người đến với cha Candido để xin trừ quỷ. Tuy nhiên, rõ ràng là lỗi ở phía người mẹ nhiều hơn, người có trách nhiệm đối với tình trạng đáng thương của cô con gái mình. Tôi đã lưu ý rằng số lượng thời gian cần thiết cho một cuộc trừ quỷ là không thể nói trước được. Sự cộng tác tích cực của người bị mắc bệnh là rất quan trọng. Tuy nhiên, dù có sự cộng tác đến đâu, thì đôi khi chúng tôi có thể chỉ đạt được một số cải tiến chứ không giải thoát hoàn toàn được. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một chàng thanh niên to béo, thuộc loại người khiến cho nhà trừ quỷ phải toát mồ hôi, bởi vì ngài cần đến một nỗ lực thể lý lớn lao, giống như một cuộc chiến đấu thực sự. Từ lúc bắt đầu, chàng thanh niên nói với vị linh mục: "Tôi không biết ngày hôm nay có tốt cho việc trừ quỷ không; tôi đã cảm thấy rằng tôi sẽ làm ông bị thương." thực ra, chắc chắn có một cuộc chiến thực xảy ra giữa hai người, và kết quả thì không chắc chán. Hoàn toàn bất ngờ, chàng thanh niên ngã xuống sàn nhà, và cha Candido cũng mệt nhoài và ngã xuống trên anh ta. Ngài đã nói với tôi: "Nếu lúc bấy giờ có ai vào phòng, thì họ sẽ không phân biệt được ai là nhà trừ quỷ, ai là người bị quỷ ám." Sau một lúc vị linh mục đã phục hồi và đã có thể kết thúc việc trừ quỷ. Vài hôm sau Cha Pio gửi tới cha Candido những lời cảnh cáo như sau: "Đừng phí thời gian và sức lực trên chàng thanh niên đó. Chỉ vô ích mà thôi". Với sự linh ứng thần linh, Cha Pio biết rằng không thể làm gì được với chàng thanh niên đặc biệt đó. Các sự kiện xảy ra đã chứng minh sự linh cảm của ngài. Tôi xin thêm một nhận xét khác: "Sự quỷ nhập không phải là căn bệnh truyền nhiễm, nó không lây lan sang những người họ hàng cũng không lây sang những người chứng kiến, cũng không nhiễm vào những nơi chốn được tổ chức trừ quỷ. " Lời tuyên bố này rõ ràng là rất quan trọng, bởi vì thường thường những nhà trừ quỷ đương đầu với những khó khăn lớn khi tìm một nơi để thi hành phép này. Nhiều lần chúng tôi bị từ chối cho vào vì họ sợ tòa nhà sẽ bị "quấy phá". Ít nhất vị linh mục cần phải biết rằng sự hiện diện của bất cứ ai bị quỷ ám và sự trừ quỷ cho họ không để lại hậu quả gì trên căn nhà hoặc trên những người sống ở đó. Thay vào đó, chúng ta nên sợ tội lỗi; một tội nặng, một tội lộng ngôn có thể gây tổn thất cho gia đình họ, cho chỗ làm việc của họ và cho những nơi họ thường lui tới. Một số trường hợp mà tôi đã chọn không phải từ nơi người bị sốc nặng nhất, nhưng từ trường hợp thông thường nhất đã xảy ra cho tôi. Anna Maria, một cô gái mười sáu tuổi, đã phải đau khổ vì cô thất bại trong học vấn (trong quá khứ cô ta chưa bao giờ gặp khó khăn về việc học hành), và ở nhà cô ta cứ nghe thấy những tiếng động lạ. Cô ta đã đến với tôi cùng với cha mẹ và chị của cô. Tôi làm phép cho cô và nhận ra những dấu hiệu tiêu cực. Rồi tôi làm phép cho mẹ của cô cũng đang phàn nàn vì những đau đớn. Khi tôi đặt tay trên đầu bà, bà thốt ra một tiếng hét lớn và từ trên ghế ngã lăn xuống đất. Tôi yêu cầu hai chị em bước ra khỏi phòng, và tiếp tục trừ quỷ cho bà với sự giúp đỡ của người chồng. Tôi nhận thấy nhiều dấu hiệu tiêu cực mạnh mẽ ở nơi người mẹ hơn ở đứa con gái. Đối với Anna Maria thì làm ba phép là đủ; đó là một sự ám nhẹ thôi, và tôi có thể chữa khỏi ngay. Còn đối với người mẹ, đòi hỏi phải trừ quỷ hàng tuần và kéo dài nhiều tháng. Bà đã phục hồi hoàn toàn sau phản ứng của bà ở lần trừ quỷ thứ nhất, sớm hơn tôi tiên đoán nhiều. Giovanna, một người đàn bà ba mươi tuổi và là mẹ của ba đứa con. Bà đã được cha giải tội của bà gửi đến cho tôi. Bà đã bị nhức đầu, bị bùa làm choáng ngất, và đau bao tử. Các bác sĩ nói bà ta vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Cơn bệnh của bà đã xuất hiện cách chậm chạp, từ từ; tức là, bà bị nhập bởi ba tên quỷ, chúng nhập vào bà qua ba lần bị bỏ bùa khác nhau. Lần mạnh nhất bị yểm trước khi bà kết hôn, bởi một cô gái cũng muốn kết hôn với vị hôn phu của bà. Đời sống cầu nguyện mạnh mẽ của gia đình Giovanna đã giúp nhiều cho việc trừ quỷ. Hai trong ba tên quỷ đã xuất ra một cách kỳ diệu mau chóng; tên quỷ thứ ba tỏ ra lì lợm hơn và phải mất ba năm trừ quỷ hàng tuần nó mới chịu lìa bỏ. Marcella, một cô gái tóc vàng mười chín tuổi có vẻ trâng tráo và bướng bỉnh, đã đến với tôi. Cô ta bị đau bao tử ghê gớm, cả ở nhà cũng như ở nơi làm việc cô ta không ngừng buông ra những lời xúc phạm, những lời bình phẩm chua chát. Các bác sĩ tuyên bố rằng sức khỏe cô ta rất tốt. Khi tôi đặt tay trên mắt cô và bắt đầu cuộc trừ quỷ, mắt của cô hoàn toàn trắng dã, khó có thể nhận ra được đồng tử ở phần dưới của mắt. Cô ta thốt ra những tiếng cười mỉa mai. Tôi vừa kịp nghĩ rằng tôi đang đối phó với Satan thì tôi nghe như có tiếng nói với tôi: "Tao là Satan", với một tràng cười khác. Dần dần, Marcella tăng cường thêm đời sống cầu nguyện, bắt đầu rước lễ, đọc kinh Mân côi hàng ngày, và đi xưng tội hàng tuần (sự xưng tội còn mạnh hơn việc trừ quỷ!). Cô ta thăng tiến dần dần và chỉ bị thụt lùi khi cô giảm bớt nhiệt tình cầu nguyện. Hai năm sau cô ta mới được chữa lành. Giuseppe, hai mươi tám tuổi, đã đến với tôi cùng với mẹ và em gái. Tôi nhận ra ngay rằng anh ta đã đến gặp tôi chỉ để làm vui lòng những người thương yêu anh ta. Anh xông ra một mùi thuốc lá nồng nạc; anh ta đã sử dụng và bán ma túy và nói lộng ngôn. Thật vô ích khi nói với anh ta về việc cầu nguyện và chịu các bí tích. Tôi cố gắng thuyết phục anh ta để cho tôi trừ quỷ, do khẩn cấp nên làm rất vắn tắt, bởi vì quỷ đã tự bộc lộ ngay tức khắc và dữ dội. Tôi đã ngừng lại. Khi tôi bảo anh ta rằng anh bị quỷ ám, anh ta đã trả lời tôi: "Tôi biết rồi và tôi lấy làm sung sướng; tôi đi theo ma quỷ." Tôi không bao giờ gặp lại anh ta lần nào nữa. Dì Angela, mặc dù còn trẻ, đã đến với tôi trong tình trạng thể lý thật đáng thương; dì không thể nói nên lời, và chắc chắn dì không thể cầu nguyện. Toàn thân dì đau đớn; hầu như không có phần thân thể nào không đau. Trong đầu óc cứ vang lên những lời báng bổ, và dì cũng nghe thấy nhiều tiếng động lạ. Khởi đầu những rắc rối của dì là một lời nguyền rủa (có thể là một lời yểm bùa) bởi một linh mục bất xứng; dì Angela đã dâng tất cả những đau khổ của dì nhân danh dòng tu của dì. Sau nhiều lần trừ quỷ tỏ ra hữu hiệu, dì đã được thuyên chuyển đến thành phố khác. Tôi hy vọng dì có thể tìm thấy một nhà trừ quỷ khác để hoàn tất việc giải thoát cho dì. Tôi sẽ mô tả một trong số nhiều trường hợp kinh khủng của sự bỏ bùa trên toàn thể một gia đình. Người cha, đang rất thành công trong việc buôn bán, đột nhiên không hiểu sao thấy mình không thể bán buôn gì được nữa. Kho hàng còn đầy hàng hóa, nhưng không ai đến mua nữa. Một lần, khi ông ta đáng lẽ đã có thể bán được một lô hàng lớn, thì chiếc xe tải của ông ta dùng để giao hàng bị hư lên hư xuống và không thể giao hàng đến nơi được và do đó, việc bán hàng không thể hoàn tất được Một lần khác, sau những cố gắng vất vả, ông đã có thể đạt được một hợp đồng lớn. Lần này chiếc xe tải đã đến được tận cửa nhà kho của người mua, nhưng không ai có thể mở được cửa nhà kho, và lại một lần nữa việc bán hàng không hoàn thành được. Cùng lúc, đứa con gái ông ta đã lấy chồng, bị chồng bỏ. Và đứa con gái khác của ông sắp sửa cưới, cũng bị người chồng sắp cưới bỏ đi vào chiều áp hôm cưới mà không một lời giải thích. Thêm vào đó còn có vấn đề sức khỏe và những tiếng động lạ nữa, như trong hầu hết các trường hợp tương tự. Thật khó mà nói nên bắt đầu việc trừ quỷ từ đâu. Tôi đã khuyên gia đình phải đọc kinh nhiều, năng chịu các phép bí tích, và phải sống đời sống Kitô hữu đích thực; rồi tôi bắt đầu trừ quỷ cho hết mọi người trong nhà. Tôi cũng trừ quỷ và cử hành Thánh Lễ tại gia và tại nơi làm việc của người cha. Sau một năm tất cả điều này bắt đầu có kết quả, và tiến trình cứ tiếp tục, mặc dù từng bước chầm chậm. Những điều này là những thử thách thực sự về đức tin và lòng kiên nhẫn! Antonia, một cô gái hai mươi tuổi, đến với tôi cùng với bố là một người làm bánh. Cô dường như là một thày bói. Em đã nghe thấy những tiếng lạ, và cô không thể nào ngủ hay làm việc được. Cũng trong cùng thời gian đó, bố cô đã bắt đầu đau bao tử mà không có thuốc nào chữa được. Khi tôi làm phép cho cô, tôi cảm thấy có sự hiện diện của ma quỷ ở cấp độ nhẹ. Tôi bảo cô rằng nếu tôi không lầm, thì cô chỉ cần một vài lần trừ quỷ là khỏi. Khi tôi làm phép cho ông bố, ông ta đi vào hôn mê hoàn toàn; ông ta im lặng và bất động. Khi tỉnh lại, ông hoàn toàn không hay biết điều gì vừa xảy ra. Rồi tôi đã bảo cô đừng nói cho ông ta biết gì cả, để tránh cho ông khỏi sợ hãi, và tôi đã hẹn hai bố con trở lại. Khi về nhà đứa con gái đã không giữ kín được sự việc, và đã nói cho bố hết mọi sự. Ông ta trở nên sợ hãi và đi đến với một thầy phù thủy. Người lúc ban đầu đã khuyên họ đến với tôi, đã nói cho tôi biết hiện giờ cả hai đều mắc bệnh, nhưng họ không bao giờ trở lại với tôi nữa. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp những người trở nên thất đảm bởi những bước chậm chạp của việc chữa lành và đi tìm đến với phù thủy với hy vọng để được chữa lành nhanh hơn, rồi cuối cùng chuốc lấy những hậu quả tai hại. Thiên Chúa tạo dựng nên chúng ta có tự do; chúng ta cũng có thể tự do phá hủy chính mình. Để kết luận chương này, tôi muốn nói lên một điều: mỗi một nhà trừ quỷ đều có những kinh nghiệm riêng mà đôi khi cũng là một. Một số trường hợp quá bất thường đến nỗi chưa có nhà trừ quỷ nào khác từng phải đối mặt. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu một số nhà trừ quỷ bị bối rối bởi điều tôi đã viết, đặc biệt ở đầu chương này, liên quan đến vị trí của những con mắt, những chứng nhức đầu, đau bao tử. Đó là những hiện tượng mà cha Candido và tất cả những nhà trừ quỷ mà ngài đã đào tạo phải đối phó đều đều, và đó là sự thật, dù những nhà trừ quỷ nào khác đã từng trải nghiệm chúng hay không. Tôi tin rằng tôi chúng ta phải học một cách hết sức kính cẩn những kinh nghiệm và những phương pháp khác nhau về việc trừ quỷ. Những sự kiện thì không thay đổi, và công hiệu của một phương pháp không thể bị giảm tác dụng vì những sự kiện khác với kinh nghiệm của một ai đó.
Tác giả: Lm. Gabriele AmorthThường thường ma quỷ làm mọi điều có thể để che giấu hành tung của nó. Nó không thích nói, và nó cố gắng mọi cách để làm cho cả nhà trừ quỷ lẫn người bị quỷ ám phải thất vọng. Kinh nghiệm dạy tôi rằng hành động của ma quỷ đi theo bốn bước: trước khi bị phát hiện, trong khi đang trừ quỷ, vào lúc bắt đầu giải thoát và sau khi giải thoát. Tôi phải lưu ý rằng không bao giờ có hai trường hợp giống nhau. Hành động của ma quỷ thì không thể nói trước được và mang nhiều hình thức khác nhau. Điều mà tôi sắp mô tả qui về hành động thường gặp nhất.
1. Trước khi phát hiện. Quỷ ám gây ra những xáo trộn thể lý và tâm thần. Do đó, người bị ám thường thường ở dưới sự chăm sóc của một bác sĩ, và không ai nghi ngờ về bản tính đích thực của các vấn đề. Các bác sĩ thường cố gắng chữa các triệu chứng trong một thời gian dài và thử nhiều thứ thuốc, luôn luôn với những kết quả rất giới hạn. Bệnh nhân thường đi hết bác sĩ này đến các bác sĩ khác, rồi chê họ là kém khả năng. Các triệu chứng tâm thần là khó chữa nhất; nhiều lần các chuyên gia không tìm thấy điều gì trục trặc - mặc dù điều này cũng thường xảy ra với các bệnh về thể lý nữa - và thường thường gia đình hay kết tội người bị quỷ ám là hay tưởng tượng ra các vấn đề. Đây là một trong những thánh giá nặng nề nhất cho những bệnh nhân" này; họ không được hiểu cũng không được tin tưởng. Hầu như luôn luôn, sau khi đi tìm một cách vô hiệu sự trợ giúp của "nền y khoa chính thức", những người này bắt đầu đi gõ cửa "các tay lang băm", hoặc tệ hơn, các tay phù thủy, thày bói, thày mo. Bằng cách này, các rắc rối càng tăng thêm.
Bình thường, những ai đến với nhà trừ quỷ (theo sự góp ý của bạn bè; rất hiếm khi có lời khuyên của linh mục!) thì trước đó họ cũng đã đi gõ cửa các bác sĩ, và họ rất nghi nan; nhiều lần họ đã thử đến với các thày phù thủy, thày cúng. Thường thường sự kiện thiếu - không thể bào chữa được - sự chăm sóc của Giáo Hội trong lãnh vực này cộng thêm vào sự thiếu đức tin hoặc thiếu thực hành đức tin của những người này, đương nhiên kết quả sẽ là một sự chậm trễ tìm đến với nhà trừ quỷ.
Chúng ta phải nhớ rằng ngay cả trong những trường hợp quỷ nhập hoàn toàn - tức là trong những trường hợp ma quỷ sử dụng thân xác của nạn nhân để nói và hành động - thì ma quỷ cũng không hành động cách đều đặn. Nó hoạt động từng giai đoạn (thường được gọi là những "lúc khủng hoảng") với những giai đoạn ngưng nghỉ bất ngờ. Theo đó, chỉ trừ một ít trường hợp, nạn nhân có thể hoạt động và duy trì công việc hoặc đi đến trường một cách dường như bình thường. Chỉ riêng mình nạn nhân mới biết được việc thực hiện những việc này đòi hỏi phải có nỗ lực ghê gớm như thế nào.
2. Trong khi trừ quỷ. Vào lúc bắt đầu, ma quỷ hết sức cố gắng để không bị phát hiện hoặc ít nhất che dấu tính cách nghiêm trọng của việc nó ám, cho dù nó không luôn luôn thành công. Đôi khi, nó bị nhà trừ quỷ dùng sức mạnh bát buộc nó phải bộc lộ sự hiện diện của nó ở ngay những kinh đầu tiên; những lần khác, phải mất nhiều kỳ trừ quỷ nó mới bị phát hiện. Tôi nhớ một anh thanh niên, vào lúc làm phép lần đầu, anh chỉ biểu hiện một phản ứng tiêu cực nhẹ. Tôi thầm nghĩ: "Trường hợp này coi bộ dễ dàng; chắc chỉ cần làm phép lần này và vài lần nữa là xong." Tới khi làm phép lần thứ hai anh ta trở nên dữ dằn hơn, và sau đó tôi không thể bát đầu trừ quỷ được nữa nếu không có bốn người lực lưỡng khống chế anh ta.
Vào những dịp khác, người ta phải chờ đợi đến "giờ của Chúa". Tôi còn nhớ rõ một người đã tham vấn nhiều nhà trừ quỷ, kể cả tôi, mà không thấy bất cứ dấu vết nào có sự hiện diện của ma quỷ. Cuối cùng, một lần quỷ bị cưỡng bức phải bộc lộ mình ra, và sau đó việc trừ quỷ được tiến hành kết quả. Đôi khi, từ lần làm phép thứ nhất hoặc thứ hai ma quỷ đã bộc lộ tất cả sức mạnh của nó, điều này thay đổi theo từng trường hợp. Có khi sự bộc lộ đang diễn tiến; thì một số người bị quỷ ám hình như mỗi kỳ có một chứng bệnh khác nhau, khiến người ta có ấn tượng rằng mỗi căn bệnh thể xác phải được đem ra lần lượt để được chữa lành.
Ma quỷ phản ứng theo nhiều cách khác nhau trước các kinh nguyện và các mệnh lệnh. Nhiều lần nó cố gắng tỏ ra dửng dưng; nhưng trong thực tế nó chịu đựng và tiếp tục chịu đựng hơn nữa cho đến khi sự giải thoát được hoàn tất. Một số người bị quỷ ám im lạng và bất động, và nếu bị kích thích, thì chỉ có cặp mắt phản ứng. Những người khác vùng vẫy lung tung, và nếu không có ai giữ lại, thì họ đã tự hại mình. Một số khác rên rỉ, đặc biệt là khi đặt dây Stola trên phần thân thể bị ảnh hưởng, như sách Nghi thức đề nghị, hoặc nếu họ được làm phép với dấu Thánh giá hoặc nước phép. Rất ít người hung hãn, và những người này phải được giữ bởi những người giúp đỡ nhà trừ quỷ hoặc bởi thân nhân họ.
Ma quỷ rất miễn cưỡng nói ra. Sách nghi thức, rất ngặt, khuyên nhà trừ quỷ đừng hỏi những câu hỏi tò mò, nhưng chỉ hỏi điều gì cần cho việc giải thoát thôi. Điều thứ nhất cần hỏi là tên. Đối với ma quỷ, vốn miễn cưỡng bộc lộ mình, việc tiết lộ mình ra là một thất bại; dù khi nó đã tiết lộ tên nó, thì nó cũng luôn luôn miễn cưỡng lặp lại, ngay cả trong cuộc trừ quỷ tiếp theo. Rồi chúng tôi ra lệnh cho ma quỷ nói có bao nhiêu quỷ hiện diện trong một thể xác đặc thù. Có thể là nhiều hoặc ít, nhưng luôn luôn có một tên thủ lãnh, và nó luôn luôn là quỷ thứ nhất bị xưng tên. Khi quỷ có một cái tên theo Kinh Thánh hoặc tên được đặt theo truyền thống (chẳng hạn, Satan, Beelzebub, Lucifer, Zebulun, Meridian, Asmodeus), chúng tôi phải đối phó với "thứ dữ", khó đánh bại. Mức độ khó khăn cũng tương quan với cường độ mà ma quỷ ám một người. Khi có nhiều quỷ hiện diện, thì tên thủ lãnh luôn luôn xuất ra sau cùng.
Sức mạnh của quỷ ám cũng được biểu lộ ra từ phản ứng của ma quỷ trước các danh thánh. Thường thường ma quỷ không và cũng không thể nói lên những danh thánh này; nó thường thay thế kiểu nói như "Ông ấy" (để ám chỉ Thiên Chúa hoặc Chúa Giêsu) hoặc "Bà ấy" (để chỉ Đức Mẹ). Có lần nó nói "Ông chủ của các ông" hoặc "Đức Bà của các ông", để chỉ Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Nếu trường hợp quỷ ám mạnh mẽ và tên quỷ thuộc đẳng cấp cao (tôi xin nhắc lại là ma quỷ vẫn giữ những đảng cấp như hồi chúng còn là những thiên thần, như ngai thần, lãnh thần, quản thần...) thì chúng dám nói lên tên Thiên Chúa và Mẹ Maria, và luôn luôn kèm theo những lời xúc phạm ghê tởm.
Một số nhà trừ quỷ cho rằng, tôi không biết tại sao, nếu đang trong lúc trừ quỷ, gặp những tên quỷ lắm mồm, chúng sẽ công khai vạch ra hết các tội lỗi của họ. Đó là một quan niệm sai lầm; ma quỷ miễn cưỡng phải nói ra, và khi chúng nói, chúng nói những điều ngớ ngẩn để làm cho nhà trừ quỷ chia trí và lẩn tránh những câu hỏi của ngài. Cũng có trường hợp ngoại lệ. Một hôm cha Candido đã mời một linh mục vốn tự hào về chủ nghĩa hoài nghi của mình, đến tham dự cuộc trừ quỷ. Vị linh mục đã chấp nhận lời mời, nhưng thái độ của ngài có vẻ xem thường; ngài đứng khoanh tay và không đọc kinh như những người có mặt nên đọc, đã vậy lại còn mỉm cười chế diễu nữa. Tới một lúc quỷ quay sang ngài và nói: "Ông nói ông không tin tôi hiện hữu. Nhưng ông tin vào phụ nữ; vâng, ông tin vào phụ nữ, và thế là thế nào!" Vị linh mục bất hạnh lặng lẽ rút lui ra ngoài cửa và biến mất.
Lần khác, ma quỷ tiết lộ tội lỗi nạn nhân để làm cho nhà trừ quỷ thất đảm. Cha Candido đang trừ quỷ cho một chàng thanh niên đẹp trai bị một tên quỷ hung dữ ám, để cố gắng làm cho nhà trừ quỷ phải thất đảm, quỷ nói: "Ông không thể thấy rằng ông đang phí thời gian vô ích sao? Người này không bao giờ cầu nguyện". Rồi quỷ tiếp tục kể ra một danh sách dài đủ thứ tội lỗi xấu xa của người đó. Lúc cuối cuộc trừ quỷ, cha Candido đã uổng công cố gắng thuyết phục chàng trai xưng hết các tội. Rất cần thiết phải lôi kéo anh ta về xưng tội, vì anh ta cứ bảo mình chẳng có tội gì để xưng. Cha Candido hỏi: "Nhưng chẳng lẽ anh không phạm điều này điều kia sao?" Không chối được nữa, chàng thanh niên đáng thương đã bắt buộc thừa nhận những vi phạm của mình. Khi vị giải tôi tiếp tục kể ra một danh sách các tội đã được quỷ nói cho cha biết, chàng ta nhìn nhận hết từng tội. Sau khi lãnh nhận phép xá giải, chàng ra về, vừa lẩm bẩm: "Tôi không hiểu gì nữa! Các linh mục này biết hết mọi thứ!"
Sách nghi thức gợi ý nên hỏi những câu hỏi khác liên quan đến thời gian quỷ ám bao lâu rồi, động lực xui khiến, và các chủ đề khác tương tự. Tôi sẽ đề cập đến sau lý do tại sao chúng ta phải hành xử trong trường hợp bùa ngải và những câu hỏi nào phải hỏi. Chúng ta cũng đừng quên rằng ma quỷ là cha sự dối trá. Nó thoải mái tố cáo người này hoặc người khác để gây nên sự nghi ngờ và thù hàn; các câu trả lời của nó phải được xem xét lại kỹ lưỡng. Tôi sẽ chỉ nói rằng việc hỏi ma quỷ chung chung thì không quan trọng lắm. Chẳng hạn, thường khi ma quỷ thấy nó dần bị mất sức mạnh, nó hứa hẹn thời điểm xuất ra, nhưng rồi nó lại chần chừ kéo dài mãi. Một nhà trừ quỷ đầy kinh nghiệm như cha Candido thường có thể đoán được không chỉ loại quỷ ám, mà còn cả tên của chúng nữa; do đó ngài không hỏi nhiều câu hỏi. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ngài hỏi tên của quỷ chỉ để được nó nói: "Ông biết rồi còn gì!" và đó là sự thật.
Trong các trường hợp những cuộc quỷ ám mạnh mẽ, quỷ có thể tự ý nói để làm cho nhà trù quỷ thất đảm. Nhiều lần quỷ đã nói với tôi: "Ông không thể làm bất cứ sự gì chống lại tôi được đâu?" "Đây là nhà của tôi mà; tôi thích ở đây, và tôi sẽ cứ ở đây, "Ông chỉ mất thời giờ vô ích thôi". Những lần khác nó đe dọa tôi: "Tôi sẽ ăn quả tim ông!" "Tối nay tôi sẽ làm cho ông kinh hãi đến nỗi ông sẽ không thể chợp mắt được." "Tôi sẽ vào giường của ông giống như một con rắn." "Tôi sẽ ném ông ra khỏi giường." Rồi sau khi đương đầu với câu trả lời của tôi nó liền im lặng chẳng hạn, khi tôi nói: "Tao được bao bọc bởi áo Đức Bà, mày làm gì được tao?" hoặc "Đức Tổng Thần Gabriel là Đấng che chở tao; mày cứ thử chiến đấu với Ngài xem!" hoặc "Thiên thần bản mệnh của tao canh chừng tao, mày đừng hòng chạm đến tao, mày không thể làm hại tao được," ma quỷ chỉ im lặng.
Nhà trừ quỷ luôn luôn có thể tìm thấy điểm yếu đặc biệt. Một số quỷ không thể chịu nổi việc vạch dấu Thánh giá với dây stola trên phần thân thể bị đau của nạn nhân; một số không thể chịu được hơi thở thổi vào mặt; số khác bằng tất cả sức lực chống lại việc làm phép với nước thánh. Rồi có một số câu trong những kinh trừ quỷ mà ma quỷ phản ứng mạnh mẽ hoặc bằng sức đang yếu dần. Về điểm này, như sách nghi thứ( có gợi ý, nhà trừ quỷ sẽ lặp đi lặp lại những câu này. Kéo dài, vắn thế nào tùy theo phán đoán của linh mục. Thường sự có mặt của bác sĩ cũng có ích không chỉ để cho việc chẩn đoán ban đầu nhưng cũng để trợ giúp xác định thời gian của việc trừ quỷ nữa. Khi người bị ám hoặc nhà trừ quỷ cảm thấy yếu mệt quá, bác sĩ là người sẽ cho họ lời khuyên khi nào nên ngưng nghỉ. Nhà trừ quỷ cũng có thể xác định khi nào nên ngừng.
3. Gần đến lúc ma quỷ xuất ra. Đây là lúc khó khăn và phức tạp, cũng có thể mất một thời gian dài. Đôi khi ma quỷ tỏ ra cho thấy nó đã mất sức, nhưng trong những hoàn cảnh khác nó cố gắng tung ra những đợt tấn công cuối cùng. Trong trường hợp một cơn bệnh thông thường, chúng tôi thường nhận thấy rằng bệnh nhân tiến bộ dần dần cho tới khi khỏi hẳn. Mặt khác, trong trường hợp bị quỷ ám, hầu hết thường xảy ra trái ngược hẳn; bệnh nhân thường cảm thấy sự tồi tệ cứ gia tăng đến khi không còn có thể chịu được nữa thì đó lại là lúc họ được chữa lành.
Đối với một tên quỷ, việc lìa bỏ một thân xác và đi vào hỏa ngục - nơi mà nó hầu như luôn luôn bị đoạ phạt - thì có nghĩa là chết vĩnh viễn và mất mọi khả năng tích cực quấy nhiễu người ta. Nó biểu lộ sự thất vọng này trong suốt những cuộc trừ quỷ với những lời như sau: "Tôi chết! Tôi chết mất!" "Tôi không chịu nổi nữa rồi" "Đủ rồi, ông đang giết tôi!,, "Ông là tên sát nhân, tên lý hình. Tất cả các linh mục là những tên sát nhân!" Và những lời tương tự. Trái lại, ở lúc bắt đầu cuộc trừ quỷ nó thường nói: "Ông không thể làm gì được tôi đâu"; bây giờ nó nói: "Ông đã giết tôi, ông đã chiến thắng." Ở lúc bắt đầu nó nói rằng nó không bao giờ ra khỏi, vì nó được hoàn toàn sung sướng trong một thể xác riêng biệt; bây giờ nó kêu nó cảm thấy yếu và muốn ra. Thực sự mỗi cuộc trừ quỷ giống như dùng gậy đập vào tên quỷ vậy. Nó phải chịu đau khổ rất nhiều và đồng thời nó cũng gây yếu đau cho người mà nó ám. Nó cũng thừa nhận rằng thà nó vào hỏa ngục còn dễ chịu hơn là trong thời gian đang trừ quỷ. Một lần, trong khi cha Candido đang trừ quỷ cho một người, gần tới lúc giải thoát, tên quỷ nói toạc ra với ngài: "Ông nghĩ rang tôi sẽ rời bỏ chỗ này nếu điều này không tồi tệ hơn chịu đau khổ trong hỏa ngục sao? Việc trừ quỷ đã trở nên thực sự không thể chịu nổi cho nó.
Chúng ta phải nhớ thêm một điều nữa để giúp đỡ người đang tiến gần tới lúc giải thoát; ma quỷ cố gắng truyền những điều nó cảm thấy cho người bị ám. Ma quỷ không thể chịu đựng lâu hơn được nữa, và nó truyền tình trạng thất vọng này cho nạn nhân của nó; nó cảm thấy gần đến hồi kết thúc đời sống của nó, không thể lý luận hợp lý, và nó truyền cảm giác khùng điên và cận tử cho người bị ám. Những người này thường hay xin tôi: "Hãy nói thật cho tôi, tôi điên phải không?" Việc trừ quỷ trở nên khó khăn hơn cho nạn nhân, và nếu không ai ép họ phải giữ đúng hẹn, họ sẽ không đi. Thỉnh thoảng có những người đã gần hoặc rất gần giai đoạn được giải thoát lại ngừng luôn việc đi đến với nhà trừ quỷ. Những "bệnh nhân" này thường phải được giúp đỡ để cầu nguyện và đi nhà thờ, bởi vì họ không thể tự mình làm việc đó. Họ cũng cần được giúp đỡ để hoàn tất cuộc trừ quỷ. Họ phải được khích lệ liên lỉ, đặc biệt trong những giai đoạn cuối.
Chắc chắn số thời gian cần có trước khi được giải thoát đã góp phần làm cho nạn nhân chán nản và kiệt quệ về thể lý. Nạn nhân cảm thấy rằng các bệnh của họ không thể chữa được. Đôi khi ma quỷ cũng có thể gây ra những bệnh nạn thực về thể lý nhưng chủ yếu là tâm lý, tuy vậy nạn nhân cần phải được chăm sóc về mặt y khoa sau khi được giải thoát. Có những trường hợp việc chữa lành được hoàn tất và không đòi hỏi thêm gì nữa.
4. Sau khi được giải thoát. Điều rất quan trọng là đừng giảm bớt cầu nguyện, chịu các bí tích, và sống một đời sống Kitô giáo. Việc thỉnh thoảng được trừ quỷ lại cũng rất có lợi bởi vì ma quỷ cũng thường hay lặp lại những cuộc tấn công và cố gắng trở lại; tốt nhất là đừng để một cửa ngõ nào cho nó trở lại. Chúng ta có thể gọi đây là một giai đoạn tập trung nỗ lực để bảo vệ cho cuộc giải thoát được thành công. Thỉnh thoảng một số trong các "bệnh nhân" của tôi đã trải nghiệm sự trở lại này. Khi không sống phóng túng, nghĩa là họ vẫn duy trì một đời sống thiêng liêng mãnh liệt, thì việc giải thoát lần thứ hai sẽ dễ dàng. Tuy nhiên, khi quỷ trở lại là do người ấy thiếu cầu nguyện, hoặc tệ hơn nữa, lại đang sa vào những tội lỗi quen phạm, thì sự ám trở nên tồi tệ hơn trước, như Tin Mừng Matthêu 12,42- 45 đã miêu tả. Quỷ sẽ trở lại với bảy quỷ dữ tợn hơn nó.
Đến đây tôi chắc chắn độc giả đã nhận ra rằng ma quỷ cố gắng hết sức để che dấu sự hiện diện của nó. Đây là một trong những sự kiện giúp phân biệt giữa sự bị quỷ ám và những vấn đề tâm lý. Với Trường hợp sau, thường bệnh nhân làm hết cách để kéo sự chú ý. Trái lại ma quỷ hành động rất cẩn thận để ẩn mình.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng con được vững lòng tin Chúa hơn.