Nhà Trừ Quỷ Kể Truyện 10 - 20

§10 - CHỨNG TỪ CỦA NẠN NHÂN

o0o

Chương này là những chứng từ hiển nhiên được viết bởi một số người đã từng bị quỷ ám. Thật khó khăn cho một nhà trừ quỷ sành sỏi hiểu được những điều mà những người bị ám cảm nhận. Điều có thể xuất hiện như thứ cảm xúc mãnh liệt bình thường tràn vào che đậy nỗi đau mà chính bệnh nhân khó có thể diễn tả được. Một nạn nhân, G.G.M., đã cố gắng mọi cách để diễn tả điều không thể cắt nghĩa, chủ yếu tin vào sự hiểu biết của những người từng chịu hành hạ bởi nỗi đau như thế.

o0o

Tất cả bắt đầu từ năm tôi lên mười sáu tuổi. Trước đó, tôi là một người trẻ hạnh phúc. Tôi rất cởi mở, khá hài hước, dù có một thứ gì đó có tính áp đảo cứ theo đuổi tôi. Các bạn bè nói với tôi: "Chúng tôi làm điều này điều kia, sao bạn không làm?" hoặc "Chúng tôi sẽ đi đến chỗ đó, tại sao bạn không đi?" Tôi không thể hiểu được tại sao, nhưng tôi đã không lấy gì làm quan trọng. Tôi sống trong một thị trấn ven biển; biển cả, bình minh, và những cánh đồng đã giúp tôi không bị buồn chán. Sau sinh nhật thứ mười sáu, tôi dời lên Roma, tôi lìa bỏ Giáo Hội, và tôi bắt đầu theo đuổi tất cả mọi thứ thú vui mà thành phố lớn ấy đem lại cho một người mới đến. Tức là, tôi đã bắt đầu nếm trải tất cả những thứ phù phiếm, mà ở thị trấn nhỏ hoàn toàn không biết gì đến. Khá sớm, tôi đã trở nên quen với cảnh bụi đời, xì ke ma tuý, trộm cáp, đĩ điếm...tôi vội vã lao đầu vào những "náo nhiệt" khiến quên đi sự bình an mà tôi đã từng biết trước kia. Lối sống mới mà tôi bắt đầu dìm mình vào thì giả tạo, ngạo mạn và kinh tởm.

Cha tôi hết chịu nổi, ông kiểm soát mọi động tĩnh của tôi và luôn luôn phẫn nộ với tôi. Thái độ phẫn nộ và khinh khi mà ông dành cho tôi đã đẩy tôi vào lối sống đường phố. Tôi bỏ nhà ra đi và trở nên quen thuộc với cái đói, lạnh, buồn ngủ, và những cái đê hèn. Tôi quan hệ với những phụ nữ suồng sã và các bạn giang hồ. Không lâu tôi thấy mình hay tự hỏi những câu hỏi không có câu trả lời, như: "Tại sao tôi sống? Tại sao tôi ở ngoài đường phố? Tại sao tôi trở nên như thế này, trong khi những người khác có sức mạnh để làm việc và có nụ cười?

Vào thời gian đó, tôi sống với một cô gái, cô ấy tin rằng sự dữ mạnh hơn sự thiện. Cô ta nói về ma thuật và các phù thủy; các bản viết của cô ta làm tôi choáng váng. Tôi đã nghĩ rằng cô ta rất thông minh bởi vì những bản viết của cô về thế giới và về cuộc đời thì vượt xa phạm vi của con người. Tôi đã đọc tất cả những bản viết của cô ta và rồi tôi bắt cô đốt hết tất cả trước mặt tôi. Bởi vì chúng chỉ nói về sự dữ, tôi sợ giữ chúng trong nhà. Vì thế cô ta ghét tôi, và tôi đã không hiểu tại sao; tôi cố gắng giúp cô ta thoát khỏi cái hố đen đó, nhưng tôi đã thất bại. Cô ta chế diễu tôi và sự thiện mà tôi đang cố gắng vươn tới.

Khi tôi đã trở về nhà sống với cha mẹ tôi, nhưng tôi cũng đang bắt đầu hẹn hò với một cô gái, cô này còn tồi tệ hơn cô trước. Trong vòng vài năm tôi đã sống trong thất vọng, khốn khổ, và bị mọi người quen biết trách móc. Dường như chung quanh tôi toàn là bóng tối; mọi nụ cười đều lìa xa tôi, và nước mắt cứ chực tuôn rơi. Tôi đã thất vọng, và tôi lại tự hỏi: "Tại sao tôi sống? Tôi là ai? Tại sao con người ở trên trái đất? Dĩ nhiên, các bạn hữu của tôi chẳng ai quan tâm đến những câu hỏi này, và trong lúc cực kỳ thất vọng, tôi đã kêu than: "Lạy Chúa, hết rồi! Con đây, trước nhan thánh Chúa, xin Chúa cứu giúp con!" Dường như tôi đã được nhận lời, bởi vì vài ngày sau cô bạn gái của tôi đã đi nhà thờ, đã rước lễ, và đã hoán cải một cách nhanh chóng.

Chẳng được hơn thì tôi cũng đã làm được tương tự. Tôi tình cờ đi vào nhà thờ trong khi đang rước tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Người ta nhờ tôi khiêng bức tượng. Tôi đồng ý mặc dù cảm thấy rất ngượng. Về sau tôi rất lấy làm hạnh phúc về vinh dự này. Tôi rước lễ, và rất ngạc nhiên về cha giải tội, ngài tỏ ra ân cần và hiểu tôi. Tôi rời khỏi nhà thờ vừa tự nhủ: "Tôi đã làm được; tôi đã trở về với sự thiện." Mặc dù tôi không biết sự thiện là gì, tôi cảm thấy rằng tôi đã tìm thấy nó. Vài tuần lễ sau tôi nghe nói đến Mễ Du, nơi Đức Mẹ hiện ra từ năm 1981, cô bạn gái và tôi cảm thấy được thúc đẩy đi đến đó ngay lập tức bởi một sự kỳ diệu nào đó mà tôi không làm sao diễn tả được. Chúng tôi đã trở lại với Giáo Hội hoàn toàn. Chúng tôi yêu mến Thiên Chúa hơn yêu chính mình, nàng đã trở nên một nữ tu, và tôi dự tính làm linh mục. Có động lực sống và tin vào sự sống vĩnh cửu đã làm cho tôi quá hạnh phúc đến nỗi không thể nào che giấu được niềm vui của mình.

Không may, đây mới chỉ là bắt đầu. "Có kẻ nào đó" không sung sướng với cuộc đời mới của tôi. Vài năm sau tôi trở lại Mễ Du, và khi tôi trở về Roma, tôi nghe thấy tiếng vọng của bóng tối tương tự như tiếng vọng mà linh hồn tôi đã sống trong đó trước khi tôi khám phá ra Thiên Chúa. Sau vài tuần lễ, cảm giác này trở nên hiện thực. Tôi đổ lỗi cho sự áp bức của cha tôi, cho đời sống vất vả mà tôi đã sống, và niềm đau mà tôi đã tưởng lầm là đã được mọi người chia sẻ. Tôi bắt đầu đau khổ như chưa từng bị trước đó. Tôi toát mồ hôi ra, tôi lên cơn sốt, và tôi không còn tí sức lực nào cả. Tôi không thể tự mình ăn uống, phải có người đút cho ăn. Tôi cảm thấy rằng thể xác tôi là một kẻ xa lạ. Tôi đã bị những mối thất vọng dày vò, và tôi đã nhìn thấy, tôi đã biết không phải với cặp mắt của ai, một bóng tối kinh khủng không phải bóng tối trong căn phòng tôi ở hay cái giường tôi nằm suốt mấy tháng qua. Bóng tối này nhận chìm tương lai của tôi, khả năng sống còn của tôi, và bất cứ hy vọng nào về tương lai. Dường như tôi đã bị giết chết bằng một lưỡi dao vô hình, và tôi đã cảm thấy rằng kẻ nhấn con dao này ghét tôi và muốn một cái gì đó còn hơn cả cái chết của tôi. Thật rất khó có lời nào diễn tả được những điều tôi cảm thấy.

Sau nhiều tháng tôi trở nên quẫn trí. Tôi không còn lý trí nữa, và những người chung quanh tôi muốn đưa tôi vào nhà thương điên. Tôi không thể hiểu được điều tôi đang nói bởi vì tôi đang sống trong một nơi xa lạ, một nơi mà trong đó tôi đã đang chịu đau khổ. Xem ra thực tại đã tách lìa khỏi tôi. Dường như chỉ có thể xác tôi còn hiện diện trong thời gian, còn linh hồn tôi thì đang ở một nơi nào khác, một nơi khủng khiếp không có ánh sáng nào xuyên tới và là nơi không có chút niềm hy vọng nào.

Suốt nhiều tháng tôi vẫn ở giữa sự sống và sự chết, và tôi không thể suy nghĩ được nữa. Tôi mất bạn bè, người thân, và sự hiểu biết của gia đình tôi. Tôi đã ở ngoài thế giới; họ không còn có thể hiểu tôi, tôi cũng không có thể đòi hỏi họ cố gắng, bởi vì tôi biết điều tôi cảm thấy bên trong, và tôi biết tôi không bao giờ có thể diễn tả được nó. Tôi hầu như hoàn toàn quên những điều về Thiên Chúa, dù tôi vẫn hướng về Ngài với những dòng nước mắt và những lời phàn nàn không dứt. Tôi cảm thấy Ngài đã bỏ đi xa, một khoảng cách mà tôi không thể đo lường bằng những dặm trường nhưng bằng những từ chối. Tức là, có một cái gì đó trong tôi khiến tôi nói "không" với Ngài, với sự thiện, với sự sống, với tôi. Tôi nghĩ đến việc quay trở lại bệnh viện để được giúp đỡ, bởi vì tôi nghĩ rằng cơn sốt đã không rời bỏ tôi trong những tháng qua có nguồn gốc vật lý. Nếu tôi có thể chữa thể xác tôi lành tôi sẽ cảm thấy tốt hơn; tôi phải làm một cái gì đó.

Không bệnh viện nào ở Roma chấp nhận tôi chỉ vì tôi có bệnh sốt. Tôi phải vượt qua hai trăm dặm trước khi có được một bệnh viện nhận tôi. Tôi ở đó hai mươi ngày, và tôi đã trải qua mọi kiểu khám bệnh và xét nghiệm đã được biết đến. Tôi được cho về với một phiếu sức khoẻ mà các lực sỹ cũng phải thèm. Tôi được ghi nhận là khoẻ như voi, nhưng lại thêm một ghi chú rằng không ai có thể cắt nghĩa cơn sốt của tôi và tình trạng khuôn mặt của tôi, nó xưng phồng lên và trông giống như một xác chết.

Tôi trông trắng bệch như tờ giấy. Ngay sau khi tôi xuất viện vì các triệu chứng của tôi có thuyên giảm đôi chút, tôi liền bị những cơn khủng hoảng trầm trọng dày vò. Tôi nôn mửa nhiều lần. Tôi đã chịu mọi thứ mà một con người có thể chịu, và tôi thấy mình đang ở một nơi rất lạ của thành phố. Tôi không biết mình đến đó như thế nào. Chân tôi cứ tự ý di chuyển theo ý nó; tay chân và toàn thân tôi hoàn toàn ở ngoài vòng kiểm soát của ý chí. Đó là một cảm giác kinh khủng, tôi muốn điều khiển thể xác tôi, nhưng nó không vâng lời tôi; tôi không muốn bất cứ ai trải nghiệm điều này. Như thể tất cả điều này chưa đủ, bóng tối đã trở lại; bây giờ nó không chỉ nhận chìm linh hồn tôi nhưng cũng cả thế xác tôi nữa. Tôi thấy mọi sự dường như chìm trong đêm đen, mặc dù đang ở giữa ban ngày. Niềm đau của tôi dường như không thể tin được. Tôi bắt đầu hét lên, quằn quại trên mặt đất như thể bị lửa đốt, và tôi đã cầu xin với Mẹ Maria, vừa khóc: "Mẹ ơi! Mẹ ơi? Hãy thương con, vì con đang hấp hối!" Nỗi đau đớn của tôi vẫn không giảm, và sự chịu đựng của tôi đã lên đến cực điểm đến nỗi tôi mất cảm thức về phương hướng. Tựa vào những bức tường bên đường, tôi lần mò đến trạm điện thoại. Cuối cùng tôi cũng đã quay được số, suốt thời gian đó tôi vẫn phải dựa vào những tấm kiếng và tường của trạm điện thoại. Chỉ có một người tôi quen biết ở trong thị trấn đã đến đón tôi và đưa tôi trở về Roma. Trước khi người quen của tôi đến, tôi tỉnh táo lên được một chút, và tôi hiểu rằng tôi đã nhìn thấy hoả ngục. Tôi đã không chạm đến hoặc đi vào đó thực sự, nhưng tôi chỉ nhìn thấy nó từ xa. Kinh nghiệm này đã thay đổi cuộc sống của tôi hơn cả lần đi hành hương ở Mẽ Du.

Tôi vẫn cố gắng cắt nghĩa tình trạng của tôi như một vấn đề tâm lý; tôi đã không nghĩ đến những nguyên nhân siêu cảm. Tôi cố gắng cắt nghĩa nó như là kết quả của sự áp chế từ phía ba tôi, của những chấn thương tuổi trẻ, những cú sốc về tình cảm, những thích ứng sai lạc, và những lý do khác. Thông qua những yếu tố này, tôi lý giải tình trạng hiện tại của tôi. Tôi đã tự học khoa tâm lý năm năm, và tôi nghĩ rằng tôi đã đạt được một một chẩn đoán đúng về cơn đau của tôi. Một tu sĩ đã khuyên tôi nhờ một thừa tác viên đặc sủng, người thông hiểu và hành động dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của đức giám mục. Vì người ta cho tôi lời khuyên này nhân ngày lễ kính Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành, nên tôi đã thi hành. Thừa tác viên này bảo tôi: "Có một kẻ nào đó đã bỏ bùa tử cho anh. Cách đây tám tháng anh đã ăn phải một trái cây có yểm bùa." Tôi bật cười và hoàn toàn không tin vào ngài. Sau đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về những lời của ngài, tôi đã bắt đầu nuôi hy vọng. Đó là một cảm giác mà tôi đã có, nhưng đã quên, và tôi bắt đầu nghĩ ngược trở lại tám tháng trước. Tôi tự nhủ: "Thôi đúng rồi! Tôi thực sự đã ăn trái cây đó." Tôi nhớ lại rằng tôi đã không muốn ăn nó vì lúc ấy tôi bỗng cảm thấy kinh tởm kẻ đã đưa nó cho tôi. Khi mọi sự đâu vào đó rồi, tôi làm theo lời khuyên mà tôi đã nhận được, đó là xin "được trừ quỷ".

Tôi bắt đầu tìm kiếm một nhà trừ quỷ. Thấy tôi tìm kiếm, các linh mục và giám mục cười tôi và làm tôi phải nhục nhã. Ở đây tôi khám phá ra một khía cạnh của Giáo Hội đã bị làm méo mó bởi các vị chủ chăn. Cuối cùng tôi đã gặp được cha Amorth. Tôi còn nhớ cái ngày rất tốt lành đó. Tôi vẫn chưa biết "làm phép đặc biệt" là gì. Tôi đã tưởng đó là dấu Thánh giá mà linh mục làm sau Thánh Lễ. Tôi ngồi xuống, và cha Armoth đặt dây stola chung quanh vai tôi và một tay trên đầu tôi. Ngài bắt đầu đọc kinh bằng tiếng Latin, nhưng tôi không hiểu những lời ngài đọc. Sau một lúc tôi cảm thấy một làn sương lạnh, hầu như lạnh buốt, đổ xuống trên đầu tôi và trên toàn thân. Lần đầu tiên trong gần một năm trời cơn sốt rời khỏi tôi. Tôi không nói gì. Cha tiếp tục và từng chút từng chút, hy vọng bắt đầu sống dậy trong tôi. Ánh sáng ban ngày bắt đầu trở lại, tiếng chim hót không còn giống như tiếng quạ kêu nữa, và những tiếng động chung quanh tôi không còn ám ảnh nữa; chúng chỉ đơn giản là những tiếng động. Cho đến lúc ấy tôi đã sống với những cái nút đậy tai, bởi vì một âm thanh nhỏ nhất cũng làm cho tôi giật mình.

Cha Amorth hẹn tôi trở lại, và vừa khi tôi ra về, tôi cảm thấy tràn ngập một ước muốn: muốn cười, muốn hát, muốn vui tươi. Tôi tự nhủ: "Thế là xong, thật là tuyệt vời!" Đó là sự thật, tôi cảm thấy tất cả những điều tôi đã diễn tả, tất cả những nỗi đau của tôi, đã bị một "kẻ nào đó" ghét tôi gây ra, và tôi đã không bị điên. "Đó là sự thật", tôi lặp đi lặp lại một mình trong xe: "Đó là tất cả sự thật". Ngày hôm nay, sau ba năm, với nhiều lần trừ quỷ, tôi bình thường trở lại. Tôi đã khám phá ra rằng hạnh phúc đến từ Thiên Chúa chứ không từ những chiến thắng và nỗ lực của chúng ta.

Sau một cuộc trừ quỷ đơn giản, sự dữ, cái gọi là bất hạnh, nỗi u buồn, sự thống khổ, những chứng đau chân, sự căng thẳng thần kinh, chứng mất ngủ, nỗi sợ bị tâm thần phân liệt hoặc động kinh (tôi đã bị ngã xuống vài lần), và nhiều dấu hiệu của các bệnh tật đã biến mất. Ba năm đã trôi qua, tôi đã có bằng chứng để chứng minh - dĩ nhiên chỉ mình tôi - rằng ma quỷ có thật, và rằng chúng hoạt động nhiều hơn chúng ta tưởng. Chúng làm mọi thứ để không bị phát hiện. Thậm chí chúng làm cho chúng ta tin rằng chúng ta mắc bệnh này bệnh khác, trong khi đó chính chúng là tác giả của mọi sự dữ. Tuy nhiên, chúng run sợ trước một linh mục cầm chổi rảy nước thánh trong tay.

Tôi đã quyết định viết lại kinh nghiệm của tôi để cảnh giác các độc giả. Trong khi tôi không may đã trải nghiệm tính chất độc ác của sự dữ đến tột đỉnh, thì không ai trong chúng ta có thể không để ý đến khía cạnh này của đời sống chúng ta. Hồi tưởng lại, tôi vui mừng vì Thiên Chúa đã cho phép tôi trải qua một cuộc thử thách khắc nghiệt như thế, vì bây giờ tôi đang bắt đầu gặt hái những hoa trái của muôn thương đau. Linh hồn tôi đã được thanh tẩy, và tôi nhìn thấy cái mà tôi không thể thấy trước kia. Trên hết, tôi ít hoài nghi hơn và ý thức hơn về thực tại chung quanh tôi. Tôi đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã bỏ tôi; bây giờ tôi nhận ra rằng đó chính là lúc mà Ngài uốn nắn tôi để tôi sẵn sàng gặp Ngài.

Tôi cũng muốn khuyến khích những ai có những chứng bệnh như thế thì cũng đừng ngã lòng. Tôi báo trước cho bạn đừng tin vào những điều mắt bạn trông thấy. Đừng tin rằng Thiên Chúa bỏ rơi bạn, cho dù tất cả dường như có vẻ rõ ràng như thế; nó không thật đâu. Khi xét kỹ mọi sự, bạn sẽ có bằng chứng rằng Thiên Chúa đã ở cùng bạn. Tất cả điều mà bạn phải làm là kiên trì, cả nếu khi nó kéo dài nhiều năm. Tôi cũng tin rằng quyền năng của việc trừ quỷ đến từ Thiên Chúa chứ không đến từ nhà trừ quỷ hay bệnh nhân. Kinh nghiệm của tôi cho hay rằng hiệu quả của việc trừ quỷ liên quan đến ý muốn hoán cải của bệnh nhân hơn là chính việc trừ quỷ. Việc xưng tội và rước lễ có giá trị như một cuộc trừ quỷ cấp độ. Sau một cuộc xưng tội tốt, những đau đớn mà tôi đã mô tả trên kia biến mất ngay lập tức. Khi rước lễ, tôi đã cảm thấy một sự ngọt ngào mà tôi đã không tin là có thể có.

Những năm trước đây, trước cả khi tôi bị đau khổ, tôi vẫn đi xưng tội và Rước lễ. Vì tôi chưa bị đau khổ, nên tôi đã không nhận ra rằng những việc đạo đức đó đã là một hình thức ngăn ngừa khỏi sự dữ. Bây giờ tôi đã biết, tôi xin mời mọi người, nhưng nhất là những người nguội lạnh, hãy tin rằng Thiên Chúa thực sự hiện diện ở toà giải tội và trong Bánh Thánh mà chúng ta vẫn thường lãnh nhận một cách thất thường.

Tôi cũng muốn mời những người hoài nghi hãy tin tưởng, trước khi "một ai đó" giúp bạn ngược lại ý muốn của bạn. Sau cùng tôi hướng về những người bị quỷ ám đáng thương - không ai đáng thương hơn họ. Họ bị Satan ghen ghét, nó dùng chính những bạn hữu và những người thân để giết họ hoặc áp bức họ. Tôi khuyên các bạn đừng đánh mất đức tin; đừng bỏ mất niềm hy vọng. Đừng để ý chí bạn phải chịu những kích thích quá đáng hoặc những ám ảnh mà ma quỷ trình bày cho bạn.

Mục tiêu thực sự của Satan không phải là làm cho bạn đau khổ hoặc làm tổn hại bạn. Nó không tìm kiếm những đau khổ của bạn nhưng là tìm kiếm một cái gì đó còn hơn thế nữa. Nó muốn linh hồn chúng ta bị đánh bại để phải thốt ra: "Đủ rồi. Tôi đã bị đánh bại; tôi là một miếng đất sét trong tay thần dữ. Thiên Chúa không thể giải thoát tôi. Thiên Chúa đã quên các con cái Ngài nếu Ngài cho phép đau khổ như thế xảy ra. Thiên Chúa không yêu thương tôi; ma quỷ vĩ đại hơn Ngài." Đây là chiến thắng thực sự của thần dữ. Chúng ta phải mắng trách nó, dù cho chúng ta không còn đức tin nữa vì nỗi đau làm cho đức tin ra mờ đục. "Chúng ta phải muốn đức tin." Ma quỷ không thể động chạm đến ý chí chúng ta. Ý chí của chúng ta không thuộc về Thiên Chúa hoặc ma quỷ; nó thuộc về riêng chúng ta bởi vì Thiên Chúa đã ban nó cho chúng ta khi Ngài sáng tạo nên chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn nói "Không" với những kẻ muốn phá huỷ nó. Chúng ta phải tin, giống thánh Phaolô, rằng "Nhân danh Chúa Giêsu Kitô mọi đầu gối, trên trời dưới đất và trong hoả ngục, phải quì xuống."

Đây là ơn cứu độ của chúng ta. Nếu chúng ta không tin vững chắc, thì sự dữ đã ám vào chúng ta - cho dù qua những bùa ngải hay những lời nguyền rủa - sẽ còn tiếp tục kéo dài nhiều năm mà không có bất cứ tiến bộ nào. Tôi cũng muốn củng cố cho những ai tin mình bị điên và không tin có phương thế nào có thể chữa trị cảnh ngộ khốn khổ của mình. Tôi có thể làm chứng rằng: sau nhiều lần trừ quỷ, sự dữ này sẽ biến hết như thể chúng chưa bao giờ có mặt. Do đó, chúng ta đừng có sợ hãi, nhưng hãy tán dương Thiên Chúa vì Thánh giá mà Ngài ban cho chúng ta. Sau Thánh giá luôn luôn có phục sinh, cũng như sau đêm đen luôn luôn có ngày tiếp nối; mọi thứ đều được tạo dựng nên như thế. Thiên Chúa không nói dối, và chúng ta đã được chọn để bước đi với Chúa Giêsu Kitô vào vườn Giệtsimani; chúng ta hãy đồng hành với Ngài trong những đau khổ của Ngài để được phục sinh với Ngài.

Tôi xin dâng lời chứng của tôi cho Đức Maria Vô Nhiễm. Tôi hy vọng rằng, dưới sự hướng dẫn của Mẹ, anh chị em tôi sẽ được nâng đỡ trong lúc đau thương. Với tất cả những người đã từng là dụng cụ cho sự dữ gây ra những đau đớn mà tôi phải chịu, tôi xin đáp trả lại bằng tình yêu, sự tha thứ, những nụ cười và những lời chúc phúc. Tôi cầu xin để những đau khổ của tôi sẽ hướng dẫn họ tới ánh sáng mà tôi đã lãnh nhận được từ nơi Thiên Chúa cao cả của chúng ta.

G.G.M

o0o

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§11 - HIỆU QUẢ CỦA NHỮNG CUỘC TRỪ QUỶ

Khi một người bị "những triệu chứng tiêu cực" - tức là một số hình thức của ảnh hưởng ma quỷ - chúng ta thường hay chú ý đến sự cải tiến sau một cuộc trừ quỷ, dù khi sự có mặt của ma quỷ tự nó không biểu lộ trong kỳ trừ quỷ. Khi chúng ta cố gắng xác định có hay không có sự hiện diện của ma quỷ, thì những phản ứng của ngày trừ quỷ tự nó không phải là kết luận. Chẳng hạn, sẽ không thành vấn đề gì nếu vào ngày trừ quỷ, người ấy biểu lộ những dấu hiệu khá hơn hoặc trở nên xấu hơn, ngái ngủ hoặc quờ quạng, thêm những vết bầm tím hoặc cơn đau không thuyên giảm. Điều xảy ra những ngày tiếp sau đó mới là quan trọng. Thường một đôi ngày đầu chưa có gì thay đổi; rồi những dấu hiệu cải tiến bắt đầu xuất hiện sau một thời gian dài từ vài đến nhiều ngày, tuỳ theo sự trầm trọng của cơn bệnh. Nếu sau nhiều ngày mà không nhận thấy sự cải tiến nào, và trong suốt thời kỳ trừ quỷ cũng không thấy có dấu hiệu "tiêu cực" nào xuất hiện, thì thường thường nguồn gốc của vấn đề không phải do ma quỷ. Nếu nhà trừ quỷ còn hồ nghi rằng ma quỷ có thể ẩn trốn, thì ngài có thể khuyên làm phép thêm một lần nữa.

Điều quan trọng là thái độ của bệnh nhân trong suốt những kỳ trừ quỷ và dường như kết quả của việc trừ quỷ cũng là ở đó. Cũng có thể là ảnh hưởng ma quỷ bộc lộ tất cả sức mạnh của nó - dù nhẹ hay nặng - vào ngày đầu tiên. Có những trường hợp, dường như ma quỷ cố gắng ẩn trốn, và sức mạnh của nó dần dần lộ ra qua nhiều kỳ trừ quỷ. Cuối cùng sức mạnh dần dần yếu đi. Tôi nhớ có một chàng thanh niên, thoạt đầu biểu lộ rất ít tính tiêu cực; trong lần trừ quỷ thứ hai anh ta bắt đầu la hét và quậy phá. Mặc dù tình trạng của anh tồi tệ hơn những người khác, thì cũng chỉ cần ít tháng trừ quỷ là anh ta được giải thoát.

Sự hợp tác của bệnh nhân là nền tảng cho sự thành công. Tôi luôn luôn nói rằng việc trừ quỷ chỉ góp 10% cho việc chữa lành; 90% còn lại là trách nhiệm của chính đương sự. Điều đó nghĩa là gì? Nghĩa là đương sự cần phải cầu nguyện nhiều, năng lãnh nhận các nhiệm tích, sống một đời sống phù hợp với Tin Mừng, dùng các phụ tích (tôi sẽ nói sau về việc sử dụng nước, muối, dầu trừ quỷ). Nó cũng có nghĩa là xin những người khác cầu nguyện cho một cuộc chữa lành - lời cầu của toàn thể gia đình, giáo xứ, và cộng đoàn tu trì, những nhóm cầu nguyện... cũng đặc biệt hiệu nghiệm - và đòi hỏi nhiều Thánh Lễ. Những cuộc đi hành hương và những công tác bác ái cũng hữu dụng. Trên tất cả, việc giải thoát có đạt được là do lời cầu nguyện của chính đương sự, và nhờ đó sự kết hợp với Thiên Chúa trở nên một lối sống. Nhiều lần tôi phải đối phó với những người đã bỏ bê việc đạo. Tôi khám phá ra rằng việc tham dự tích cực vào giáo xứ hoặc vào các nhóm cầu nguyện, đặc biệt là các nhóm canh tân, là hết sức lợi ích.

Tôi thường so sánh sự quỷ ám với ma tuý để chứng minh quan điểm của tôi về sự hợp tác. Mọi người đều quá biết ma tuý, ai cũng biết rằng người nghiện ma túy có thể chữa được, với hai điều kiện: Thứ nhất, họ phải được giúp đỡ bằng cách gia nhập một nhóm hỗ trợ hoặc những tổ chức tương tự khác bởi vì họ không thể một mình thực hiện điều đó. Thứ đến, họ cũng phải tích cực cộng tác bằng nỗ lực riêng họ; nếu không thì mọi hình thức giúp đỡ khác sẽ vô ích. Trong trường hợp ảnh hưởng quỷ ám tôi đã nêu lên sự giúp đỡ cá nhân. Trong khi những thành quả trực tiếp của việc trừ quỷ và sự giải thoát xảy ra chậm chạp, tôi đã nhìn thấy những kết quả gián tiếp - tức là sự hoán cải - xảy ra rất nhanh. Toàn thể gia đình trở nên tận tuỵ sốt sáng làm việc lành phúc đức và hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện - rất thường qua chuỗi Mân côi. Tôi đã chứng kiến sự quảng đại thực sự đã thắng vượt những trở ngại cho việc chữa lành như thế nào, như một tình huống hôn nhân bất hợp pháp hoặc sự không thể tha thứ những sai lầm hoặc sự cam chịu một người nào đó, nhất là những người thân cận mà mọi mối liên hệ với họ đều đã bị cắt đứt.

Một trong những lợi khí hữu hiệu nhất chống lại những ảnh hưởng sự dữ lại là một trong những lời khuyên Phúc Âm khó nhất: hãy tha thứ cho kẻ thù. Trong trường hợp này, kẻ thù thường là kẻ bỏ bùa ngải và kẻ duy trì tác dụng của nó. Sự chân thành tha thứ, bao gồm việc cầu nguyện thay cho người đó và xin lễ cầu nguyện cho họ hoán cải, thường thường sẽ giải toả tình hình bế tắc và giúp mau chữa lành.

Những lợi ích của việc trừ quỷ bao gồm việc chữa lành khỏi các bệnh nạn tật nguyền mà đôi khi xem ra không thể chữa được. Chúng tôi có thể đang phải đương đầu với những cơn đau không thể cắt nghĩa được trong những phần thân thể khác nhau - tôi nhắc lại rằng hầu hết các phần bị ảnh hưởng là ở đầu và bao tử. Hoặc chúng tôi có thể phải đối phó với những bệnh đặc biệt, rõ ràng được chẩn đoán bởi các bác sĩ là những người không thể chữa được hoặc tuyên bố là bệnh nan trị. Ma quỷ có quyền để gây ra bệnh tật. Phúc Âm kể cho chúng ta thấy một người đàn bà bị quỷ ám suốt mười tám năm - có thể đây là bệnh biến dạng cột sống chăng? - và bà đã được chữa lành khi Chúa Giêsu trừ quỷ cho bà. Tương tự, Ngài cũng đã giải thoát cho một người đàn ông bị quỷ câm điếc ám. Chúa Giêsu cũng đã chữa lành cho những người bị điếc và câm không liên quan gì đến ảnh hưởng của ma quỷ. Phúc Âm phân biệt rất rõ ràng giữa những người bệnh và những người bị quỷ ám, dù khi những triệu chứng giống hệt nhau.

Ai là người bị đau khổ nghiêm trọng nhất? Ai khó chữa lành nhất? Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, người khó chữa nhất là những nạn nhân của những loại bùa mạnh nhất. Tôi nhớ một số người bị bỏ một thứ bùa ở Brazll, gọi là macumbe. Tôi đã trừ quỷ cho những người bị đau khổ bởi những thày phù thuỷ Phi châu. Tất cả đều cực kỳ khó chữa. Những trường hợp khó khăn khác gồm những loại bùa được bỏ cho toàn thể gia đình để phá hoại họ. Đôi khi có những vấn đề phức tạp mà tôi không biết phát xuất tự đâu. Phải mất một thời gian lâu mới giải thoát được những người mà thỉnh thoảng họ lại bị tấn công bởi những thứ bùa mới. Việc trừ quỷ vẫn mạnh hơn việc bỏ bùa; do đó, việc chữa lành không thể bị cản trở, nhưng có thể bị chậm đi mất một thời gian lâu.

Ai là người đau khổ nhất? Chắc chắn, đó là người trẻ. Khi tôi hồi tưởng lại những nguyên nhân quỷ ám và xem xét lại những cơ hội khiến ma quỷ nhũng nhiễu người ta, thì rõ ràng môi trường ngày nay hết sức nguy hiểm cho giới trẻ. Nguyên nhân là giới trẻ thiếu đức tin và không có lý tưởng; do đó, họ là những người dễ va vào những kinh nghiệm tai quái. Ngay cả trẻ con cũng rất dễ bị tổn thương, không do lỗi cá nhân, nhưng do những yếu đuối của chúng. Nhiều lần chúng tôi trừ quỷ cho người lớn, chúng tôi khám phá thấy dấu vết ma quỷ hiện diện từ hồi họ còn thơ ấu, hoặc tồi tệ hơn nữa, từ lúc mới sinh hoặc từ hồi còn trong bào thai.

Nhiều lần người ta nói tôi đã trừ quỷ cho phụ nữ nhiều hơn cho nam giới. Điều này cũng đúng đối với mọi nhà trừ quỷ. Thật không sai khi nói rằng nữ giới dễ bị quỷ tấn công hơn nam giới. Nam giới và nữ giới không bị tấn công cùng một cách như nhau. Cũng thực sự là phụ nữ có xu hướng chạy đến nhà trừ quỷ để được trừ nhiều hơn nam giới. Nhiều người nam, ngay cả khi họ nắm chắc họ đã bị ám, họ vẫn tuyệt đối từ chối đến gần linh mục. Tôi cũng đã yêu cầu người nam nhiều hơn người nữ phải thay đổi lối sống của họ, và họ đã từ chối. Những người nam này không bao giờ quay trở lại, mặc dù họ ý thức đầy đủ về tai hoạ của họ. Ngãng trở lớn nhất cho việc chữa lành là từ chối hoán cải từ đời sống vô thần tiến đến đời sống đức tin, hoặc từ đời sống tội lỗi đến đời sống ân sủng.

Tôi không phủ nhận điều này: để được chữa lành khỏi sự dữ này đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn lao sống một đời sống Kitô giáo mãnh liệt. Tôi cũng xác tín rằng đây là một trong những lý do tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ này xảy ra. Nhiều lần các nạn nhân của ảnh hưởng quỷ dữ đã thú với tôi rằng đức tin của họ rất nguội lạnh, và đời sống cầu nguyện của họ hầu như không có. Họ thú nhận rằng chính sự dữ làm khổ họ đã khiến họ chạy lại gần Thiên Chúa hơn, đôi khi với lòng sốt sắng lớn lao. Trong khi chúng ta dính bén với cuộc đời này và với thế gian này nhiều hơn chúng ta tưởng, thì Chúa lại nhìn xa hơn; Ngài nhìn đến lợi ích đời đời của chúng ta.

Trong khi đó, nhà trừ quỷ tiếp tục làm phép và không ngừng cố gắng khích lệ bệnh nhân cầu nguyện và theo đuổi tất cả mọi hình thức sống đạo mà chúng ta đã đề cập đến. Ngài cũng sẽ cố gắng khiêu khích ma quỷ, làm cho nó đuối sức đi với mọi dụng cụ ngài có. Sách Nghi thức khuyên nhà trừ quỷ nhấn mạnh trên những phép nào gây cho ma quỷ phản ứng: những phép này thay đổi tuỳ theo người và tùy lúc. Một số người không thể chịu để bị rảy nước thánh; những người khác trở nên cáu giận nếu chúng ta thổi trên họ. (ông Tertulianô nói rằng cách dùng này đã được sử dụng từ thời các thánh giáo phụ). Những người khác không thể chịu nổi mùi nhang; do đó, sử dụng nó rất có lợi. Có những người khác nữa cảm thấy đau đớn khi nghe chơi đàn Organ, nghe thánh nhạc và thánh ca Gregorien. Đó là tất cả những phương pháp hữu ích mà tôi đã trực tiếp trải nghiệm những hiệu quả của chúng.

Ma quỷ cư xử thế nào trong tiến trình trừ quỷ? Tôi sẽ lặp lại điều tôi đã nói. Ma quỷ chịu đau khổ và gây ra đau khổ. Nỗi đau mà nó cảm nghiệm trong một cuộc trừ quỷ thì không thể tưởng tượng nổi đối với chúng ta. Một hôm cha Candido hỏi một tên quỷ xem trong hoả ngục có lửa không, lửa có đốt nóng không. Quỷ trả lời: "Nếu ông biết ông là một thứ lửa đối với tôi, thì ông chẳng hỏi tôi câu hỏi này." Hiển nhiên là chúng ta không nói đến thứ lửa vật chất, do chất đốt gây nên. Chúng tôi chứng kiến cách ma quỷ cháy khi nó phải tiếp xúc với các đồ thánh như Thánh giá, các di tích thánh, và nước thánh. Tôi cũng đã nghe ma quỷ nói với tôi nhiều lần rằng trong cuộc trừ quỷ chúng phải đau khổ nhiều hơn trong hoả ngục. Khi tôi hỏi: "Vậy tại sao mày không vào hoả ngục đi?" chúng trả lời: "Bởi vì chúng tôi chỉ thích hành khổ người ta thôi." Ở đây chúng ta thấy rõ ràng tính chất độc địa của ma quỷ: ma quỷ biết rằng nó không thể kiếm được lợi ích gì từ cái đau khổ mà nó gây ra. Trái lại, nó biết rằng hình phạt đời đời của nó sẽ gia tăng thêm. Thậm chí dù cho có phải trả giá bằng nỗi đau khổ của nó, nó vẫn không ngừng gây ra sự dữ chỉ vì sự dữ.

Nguyên tên của ma quỷ, như trong trường hợp các thiên thần, cũng nói cho chúng ta về chức vụ của nó. Hầu hết những ma quỷ nào quan trọng đều được kể tên trong Thánh Kinh hoặc Thánh truyền: Satan hoặc Beelzebub, Lucifer, Asmodeus, Meridian, Zebulun. Những tên khác cho chúng ta thấy rõ mục đích của các hành động của chúng - Destruction (phá hoại), Perdition (tiêu diệt), Ruin (tàn phá), - hoặc chúng nói lên những sự dữ cá nhân - Insominia (làm mất ngủ), Tenor (khủng bố), Discord (bất hoà), Envy (ham muốn), Jealously (ghen tương), Sloth (lười biếng).

Trong hầu hết các trường hợp, khi chúng rời khỏi một linh hồn là chúng phải vào hoả ngục; đôi khi chúng cũng được thả vào trong sa mạc (trong sách Tobia có nói đến quỷ Asmodeus bị tổng thần Raphael xiềng trong sa mạc). Tôi luôn luôn ép chúng phải đi đến dưới chân Thánh giá, để lãnh nhận bản án của chúng từ nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng là thẩm phán duy nhất.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§12 - NƯỚC, DẦU, MUỐI

Trong số những biện pháp mà nhà trừ quỷ thường dùng (và không chỉ nhà trừ quỷ mà thôi), trước hết tôi đề cập đến nước trừ quỷ (hoặc ít nhất là nước thánh), dầu trừ quỷ (dầu ôliu), và muối trừ quỷ. Mỗi linh mục đều có thể đọc các kinh trong sách Nghi thức để làm phép ba thứ này; ngài không cần phải xin phép. Hơn nữa, rất hữu ích nếu biết công dụng đặc biệt của ba vật thánh này, mà nếu sử dụng với đức tin sẽ đem lại lợi ích lớn lao.

Nước trừ quỷ. Nước phép đã được dùng rộng rãi trong tất cả các nghi thức phụng vụ. Tầm quan trọng của nó khiến chúng ta nhớ ngay đến bí tích rửa tội. Trong khi dùng nước trừ quỷ chúng ta đọc lời nguyện xin Thiên Chúa, nhờ sự rảy nước thánh, xin Ngài ban cho chúng ta ba lợi ích sau đây: ơn tha tội, ơn bảo vệ khỏi sự dữ của ma quỷ, và ơn che chở thần linh. (ở Ý, khi muốn cho một thí dụ về hai sự vật không tương thích, chúng tôi nói: "Chúng hợp nhau như quỷ và nước thánh".) Lời nguyện tiếp tục bằng việc nhắc đến những ảnh hưởng khác của nước trừ quỷ. Bên cạnh sự giải thoát khỏi ma quỷ, cũng như sự chữa lành khỏi các bệnh tật, nó còn gia tăng thêm các ân sủng thần linh và che chở các nhà và tất cả những nơi cư trú để người tín hữu sống trong đó không bị những ảnh hưởng của Satan khuấy khuất. Sách Nghi thức cũng kể ra sự bảo vệ chống lại mọi mưu chước ma quỷ và gìn giữ họ khỏi bất cứ cái gì làm cho họ mất bình an, ban cho họ được khoẻ mạnh và thanh thản.

Dầu trừ quỷ. Nếu được dùng trong đức tin, dầu này giúp xua trừ các quyền lực ma quỷ, các cuộc tấn công của chúng, và các sự ám ảnh chúng gợi lên. Nó cũng có lợi cho sức khoẻ tâm trí lẫn thể xác. Nó giúp nhớ lại các truyền thống cổ xưa xức dầu trên các vết thương, và quyền năng mà Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ chữa bệnh bằng cách đặt tay và xức dầu. Đặc biệt là dầu trừ quỷ: dầu tách những sự ô uế ra khỏi thân xác. Nhiều lần tôi đã làm phép cho những người bị bỏ bùa do ăn hoặc uống một thứ gì đó đã bị yểm. Rất dễ nhận ra, nếu đó là trường hợp gây ra đau bao tử, vốn là nét đặc trưng của triệu chứng này. Thỉnh thoảng, nó còn bao gồm những triệu chứng như hơi, nấc cục, gầm gừ, đặc biệt trong suốt thời gian làm việc đạo đức như đi nhà thờ, lúc cầu nguyện, và nhất là trong lúc trừ quỷ. Trong những trường hợp này, thân xác phải trục xuất ra bất cứ chất độc gì nó đã ăn vào. Dầu trừ quỷ thì rất hữu dụng để tách thân xác ra khỏi những sự ô uế này. Cũng có thể cho nạn nhân uống nước thánh.

Về điểm này, ai chưa quen hoặc chưa bao giờ nhìn thấy những vật này sẽ khó mà tin được những gì tôi vừa mới nói; do đó, tôi phải nhấn mạnh hơn. Chúng ta trục xuất cái gì? Thỉnh thoảng đó là nước miếng đặc và có bọt hoặc một thứ chất lợn cợn trắng sền sệt. Lần khác chúng tôi thấy những vật rất lạ, như móng tay, những miếng chai, những con búp-bê nho nhỏ bằng gỗ, những chuỗi dây thắt nút, những cuộn dây kẽm, những sợi chỉ mầu sắc khác nhau, những cục máu. Những vật này được trục xuất ra một cách tự nhiên, thường bằng việc nôn mửa. Tôi muốn nhấn mạnh rằng thể xác không bao giờ bị thương tổn, cho dù bởi mảnh chai sắc nhọn; trái lại nó được lợi rất lớn. Cha Candido vẫn còn giữ cả rổ những thứ được trục xuất ra khỏi từ nhiều người khác nhau. Đôi khi những biện pháp tống xuất vẫn còn là một mầu nhiệm. Chẳng hạn, nạn nhân cảm thấy bao tử đau đớn như thể bị một cái móng tay cào vào; và rồi họ thấy một cái móng tay rơi trên sàn nhà gần chỗ họ, và cơn đau biến mất. Điều lạ nhất là tất cả những đồ vật này được hoá thành vào chính lúc chúng được trục xuất. Trong một cuộc phỏng vấn, cha Candido phát biểu: "Tôi đã nhìn thấy những mảnh chai, mảnh sắt, sợi tóc, và những miếng xương được mửa ra, hoặc những vật bằng plastic, có hình dáng con mèo, con sư tử hoặc con rắn. Chắc chắn những vật lạ này có liên hệ với nguyên nhân quỷ ám.

Muối trừ quỷ cũng có lợi trong việc trừ quỷ và chữa lành linh hồn lẫn thể xác. Chức năng đặc biệt của muối này là che chở các nơi chốn khỏi ảnh hưởng hoặc sự hiện diện của ma quỷ. Khi hoài nghi có ma quỷ quấy phá, tôi thường khuyên người ta rải muối trừ quỷ trên ngưỡng cửa và trong bốn góc phòng hoặc các phòng bị ảnh hưởng.

"Giới Công Giáo không tin" có thể cười sự khẳng định của tôi. Chắc chắn rằng các á bí tích ấy sẽ có hiệu nghiệm khi dược dùng với đức tin; nếu không có đức tin thì chúng chẳng có công hiệu gì. Công Đồng Vaticanô II và Giáo Luật (điều 1166) dùng cùng một từ để định nghĩa "các á bí tích là những dấu chỉ thánh, nhờ đó nhiều hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả thiêng liêng được biểu thị và được thông ban do lời cầu của Giáo Hội". Bất cứ ai dùng những dụng cụ này với đức tin thì sẽ đạt được những kết quả bất ngờ. Tôi biết nhiều bệnh bất trị đối với mọi thứ thuốc nhưng đã biến mất sau khi tôi chỉ vạch dấu Thánh giá với dầu trừ quỷ trên những phần bị ảnh hưởng.

Trầm hương được làm phép cũng có hiệu quả cho các ngôi nhà; chủ đề này sẽ được bàn đến riêng. Trầm hương đã luôn luôn được coi như một thứ để trừ khử ma quỷ, ngay trong các nền văn minh ngoại giáo, cũng như là một yếu tố để tán dương thờ phượng thần thánh. Việc dùng trầm hương trong phụng vụ đã bị cắt giảm trong thời đại chúng ta, nhưng nó vẫn là một yếu tố hiệu nghiệm để ca tụng Thiên Chúa và chống lại ma quỷ.

Sách Nghi thức cũng gồm có việc làm phép y phục. Nhiều lần tôi đã chứng kiến hiệu quả của nó trên những người bị ảnh hưởng ma quỷ. Những lần khác tôi đã dùng nó như một cách thử để xác định sự có mặt của ma quỷ. Nhiều lần có những người (các cha mẹ, các cô vợ chưa cưới,...) đến hỏi tôi xem người mình yêu có bị ảnh hưởng của ma quỷ không. Nếu người yêu không tin vào sự hiện diện của ma quỷ, thì thường chàng hay nàng cũng chẳng có chút niềm tin tôn giáo nào và cũng chẳng lưu tâm đến việc đến xin linh mục làm phép. Trong tình huống này phải làm gì? Thường thường, sau khi tôi làm phép cho một số quần áo, người ta sẽ đem đặt quần áo ấy trong phòng của người bị ám. Nhiều lần nạn nhân xé rách những y phục đã làm phép ngay khi họ mặc vào, vì họ không thể chịu đựng được sự tiếp xúc ấy. Tôi đã cho một thí dụ về vấn đề này. Nước phép cũng là một cách thử khác. Chẳng hạn, có một người mẹ hồ nghi con trai hoặc chồng bà bị quỷ ám, bà dùng nước phép để nấu cháo, hoặc pha cà phê hay trà. Thường người bị ám sẽ cảm thấy thực phẩm ấy đắng đót và không thể ăn được mà không biết tại sao.

Tôi xin lưu ý rằng những cách thử này là một dấu chỉ tích cực có quỷ ám: tức là, nếu một người nhạy cảm với nước hoặc y phục đã làm phép, thì đó có thể là một dấu hiệu có sự hiện diện của ma quỷ. Tôi không thể nói ngược lại. Tức là, nếu trước những việc thử đó người đó không có phản ứng gì thì cũng không hẳn có nghĩa là không có sự hiện diện của ma quỷ. Ma quỷ có thể làm mọi cách để tránh bị phát hiện.

Chúng cố gắng ẩn trốn trong suốt cuộc trừ quỷ cũng được; sách Nghi thức cũng lưu ý nhà trừ quỷ đối phó với những mưu mô của quỷ. Để cố gắng không bị phát hiện, một tên quỷ có thể không trả lời một số câu hỏi hoặc chỉ trả lời vài câu ngớ ngẩn, không đáng với trí năng như nó. Có khi nó giả vờ xuất khỏi thể xác của người bị ám bằng cách ngưng hết mọi hoạt động nhằm hy vọng lôi kéo kẻ ấy ra khỏi sự chăm sóc của nhà trừ quỷ. Chưa hết, nó còn cố gắng mọi cách để cản trở việc trừ quỷ. Nó còn tạo ra những ngãng trở thể lý hoặc thường là tâm lý để làm cho kẻ ấy bị lỡ hẹn với nhà trừ quỷ, trừ khi một người bạn hoặc thân nhân thúc giục viếng thăm. Thỉnh thoảng nó còn cho thấy những dấu hiệu của một căn bệnh tự nhiên, thường là về tâm lý, để nguỵ trang sự hiện diện của nó. Đôi khi bệnh nhân có những cơn mơ hoặc thị kiến trong đó họ tự lừa dối mình rằng Chúa, Đức Mẹ, hoặc vị thánh nào đó đã giải thoát cho mình. Điều đó khiến họ không đến với nhà trừ quỷ nữa và báo cho ngài rằng mình đã được giải thoát rồi.

Các á bí tích mà tôi đã đề cập đến, không kể những công dụng cụ thể riêng biệt, chúng còn có thể làm giảm bớt những hậu quả của các thủ đoạn mà ma quỷ dùng. Khi giải quyết vụ quỷ ám, đầy những mưu mô thủ đoạn, cần phải cầu nguyện nhiều để được ơn biết phân biệt. Tôi xin nêu ra điều sau đây như là những dấu hiệu thường xảy ra nhất của ảnh hưởng ma quỷ: những thị kiến, những lời phán, những thứ thần bí giả tạo, hoặc đòi được coi là thị nhân. Trong những trường hợp này, nếu chẳng phải chúng ta đang đứng trước những căn bệnh tâm lý thì cũng thường phải đối phó với những mưu mô của ma quỷ.

Tôi xin kết thúc chương này với một giai thoại liên quan đến nước phép. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một người bị quỷ ám. Ngài đến gần người ấy với cây chổi rảy nước thánh và bình đựng nước thánh. Lập tức ma quỷ quay lại nói với ngài: "Ông có thể dùng nước ấy để súc miệng ông được đấy!" Lúc đó ngài mới sực nhớ ra rằng ngài đã lấy nước ở vòi ra mà quên chưa làm phép.

Mặc dù sách các phép mới, có hiệu lực từ ngày 11.4.1993, đã thay đổi các công thức, nó cũng không giảm hiệu lực của các phép này, cho dù nó không minh nhiên kể ra tất cả các lợi ích.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§13 - TRỪ QUỶ CHO NHÀ CỬA

Kinh Thánh không nói đến việc trừ quỷ cho nhà cửa, nhưng kinh nghiệm chứng minh rằng trong một số trường hợp đây là điều cần thiết và lợi ích. Sánh Nghi Thức cũng không đề cập đến loại trừ quỷ này. Thực ra ở cuối kinh trừ quỷ của Đức Lêô XIII, chúng ta cầu xin phép lành cho nơi chốn mà những lời cầu nguyện ấy đang được đọc lên, nhưng lời cầu ấy tự nó là một lời cầu xin Thiên Chúa che chở Giáo Hội cho khỏi ma quỷ, chứ không đề cập đến nơi chốn.

Tôi sẽ nói ngay rằng tôi chưa bao giờ cảm nghiệm thấy những nơi chốn bị quấy phá bởi ma quỷ như một số tiểu thuyết hoặc phim ảnh mô tả, chẳng hạn như một lâu đài cổ xưa bị bỏ hoang. Đó chỉ là một nỗ lực trình bày cho có vẻ ly kỳ hấp dẫn chứ không có chút dấu vết nào của việc nghiên cứu nghiêm túc. Trong thực tế chúng ta thường gặp những tiếng động như tiếng gõ hoặc tiếng đập. Nhiều lần có cảm giác như đang bị một ai đó vô hình theo dõi, đang bị quan sát, hoặc bị đụng chạm, hoặc bị tấn công. Sự sợ hãi gây nên phần lớn trong những cảm giác này, biến bóng thành thật.

Cũng có nhiều vấn đề phức tạp hơn. Chẳng hạn những cánh cửa và cửa sổ mở đóng vào một giờ nào đó; những bước đi ngoài hành lang; những đồ vật di chuyển, hoặc lúc ẩn lúc hiện trong những nơi không ai nghĩ tới; và những con vật mà ta chỉ nghe thấy tiếng chứ không nhìn thấy.

Chẳng hạn, tôi còn nhớ rằng tất cả mọi thành viên của một gia đình có thể nghe tiếng mở, đóng cửa đàng trước và rồi tiếng bước chân rõ ràng của một người đàn ông bước qua tiền sảnh, rồi biến mất trong căn phòng nào đó. Một lần một người bạn đến thăm đã nghe thấy những tiếng động tương tự như thế và đã hỏi xem ai đã đi vào. Để tránh làm anh ta sợ, gia đình đã bảo anh ta rằng đó là một người khách trọ qua đêm. Tôi biết có những côn cùng, những con mèo, và những con rắn thình lình xuất hiện. Một người mà tôi đã trừ quỷ cho thậm chí đã thấy một con cóc còn sống ở trong cái gối của anh ta!

Sự hiện diện của ma quỷ được biểu lộ qua những khó chịu thể lý; mất ngủ, nhức đầu, hoặc đau bao tử; hoặc một nỗi khó chịu thường xảy ra khi ở một nơi chốn đặc biệt nào đó mà không xảy ra khi ở nơi khác. Khi điều này xảy ra thì người ta dễ đi khám bác sĩ, nhưng không dễ gì định được nguyên nhân. Chẳng hạn, một người kêu rằng cứ mỗi lần anh ta làm khách mời tại nhà một người họ hàng hoặc bạn bè là anh ta lại cảm thấy khó chịu: mất ngủ, đau đầu, hoặc những chứng đau khác có thể kéo dài nhiều ngày, trong khi những triệu chứng này không có ở bất cứ nơi nào khác. Việc chẩn đoán thì dễ, nhưng không dễ tìm ra nguyên nhân của vấn đề, nó có thể có nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có thể là hậu quả của sự tự kỷ ám thị, nếu có lý để nói như vậy - chẳng hạn, một cô con dâu đến thăm bố mẹ chồng là những người đã chống đối cuộc hôn nhân của cô hoặc là những người chỉ muốn giữ người con trai cho riêng mình. Tuy nhiên, những nguyên nhân sự dữ không thể tự động mà được xua trừ.

Cũng nên lưu ý rằng hành vi của các con vật nuôi trong nhà khi những hiện tượng này xảy ra cũng rất nên để ý. Chẳng hạn, nếu có một cảm giác về một sự hiện diện vô hình trong một căn phòng, thì một con chó hoặc con mèo thường dán chặt mắt vào một điểm đặc biệt. Có khi những con vật ấy sẽ nhảy lên và chạy trốn vì sợ hãi, cứ như là một sự hiện diện bí nhiệm trấn áp chúng. Tôi có thể nói đến nhiều chi tiết đáng quan tâm đối với những người muốn nghiên cứu về chủ đề này. Ở đây tôi chỉ muốn nói tôi tin rằng trong khi những con vật không nhìn thấy bất cứ cái gì cụ thể, thì chúng vẫn nhạy bén trước sự hiện diện lạ hơn chúng ta. Tôi tin rằng hành vi của các vật nuôi trong nhà có thể là một trong những yếu tố quyết định để xác định có nên trừ quỷ cho căn nhà hay không.

Điều quan trọng nhất là phải hỏi cạn kẽ những người có vẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi loại sự cố này trước khi tiến hành một việc trừ quỷ. Phần lớn những hiện tượng này không phải ma quỷ ám ảnh một căn nhà nhưng chỉ ám ảnh một hay nhiều cá nhân mà thôi. Nhiều lần tôi đã không thành công trong việc trừ quỷ căn nhà, nhưng khi tôi trừ quỷ cho một hay nhiều cá nhân, thì những hiện tượng trong nhà giảm đi và dần dần mất hẳn.

Làm thế nào để trừ quỷ căn nhà? Cha Candido và tôi dùng cùng một phương pháp. Sách Nghi thức có khoảng mười kinh cầu xin Chúa che chở nơi chốn cho khỏi ảnh hưởng ma quỷ. Chúng bao gồm việc làm phép nhà, trường học, và những dinh thự khác. Chúng tôi đọc một số trong các kinh này. Rồi chúng tôi đọc phần đầu của lần trừ quỷ đầu tiên cho các cá nhân, rồi biến báo sang việc làm phép nhà. Kế tiếp chúng tôi trừ quỷ cho mỗi căn phòng, cũng giống như làm phép căn nhà bình thường. Sau đó, chúng tôi làm lại một vòng nữa, lần này làm với trầm hương đã làm phép. Chúng tôi kết thúc với những kinh nguyện khác. Sau khi trừ quỉ, nếu cử hành một Thánh Lễ Misa trong nhà thì rất hiệu nghiệm.

Nếu sự quấy phá nhẹ, thì chỉ nguyên việc trừ quỷ cũng đã đủ. Nếu những rắc rối bị gây nên do một sự yểm bùa, và bùa ấy mới bị yểm lại, thì việc trừ quỷ cũng phải được lặp lại cho tới khi căn nhà trở nên "miễn nhiễm đối với ma quỷ". Trong tình cảnh tồi tệ nhất thì sẽ gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn, chính tôi đã tìm cách trừ quỷ những căn hộ đã từng được dùng một thời gian lâu để lên đồng hoặc nơi những thầy phù thuỷ làm những quỷ thuật đen. Những thí dụ tồi tệ nhất gồm có những nghi lễ Satan. Đôi khi sự quấy phá trầm trọng và rất khó cho việc giải thoát hoàn toàn đến nỗi tôi bắt buộc phải khuyên rời bỏ chỗ ở.

Mặt khác, những hoàn cảnh ít nghiêm trọng, chỉ cần cầu nguyện là đủ để tái lập bình an, một gia đình hay bị những tiếng ồn ào quấy phá vào ban đêm; sau khi cử hành mười Thánh Lễ, những tiếng ồn ào đó ngưng hẳn. Có thể có những linh hồn đau khổ đáng thương trong luyện tội được Chúa cho phép về xin ta cầu nguyện cho không? Điều này khó nói, nhưng cũng đã hơn một lần xảy ra. Cha Pellegrino Emetti, một nhà trừ quỷ danh tiếng nhất ở khu vực Venice - cũng là một người nổi tiếng là một học giả Kinh Thánh và âm nhạc - đã trải nghiệm một số trường hợp rất nghiêm trọng. Một gia đình nọ đã bị không chỉ các cửa sổ và cửa ra vào cứ tự nhiên đóng vào mở ra mặc dù đã được sửa chữa rất kỹ lưỡng, mà còn bị các bàn ghế tủ rả di chuyển nhảy múa và nhiều sự kiện khó tin khác. Nhà trừ quỷ đã trừ thành công bằng cách dùng cùng một lúc tất cả ba á bí tích vốn là công cụ tiêu chuẩn của nhà trừ quỷ. Ngài khuyên gia đình trộn lẫn một tách hoặc một ly gồm nước trừ quỷ với dầu và muối; rồi mỗi buổi chiều, đổ một muỗng nhỏ hỗn hợp đó trên mép cửa sổ và ngưỡng cửa ra vào, vừa làm việc đó vừa đọc kinh Lạy Cha. Cách chữa trị này có hiệu quả. Một tuần sau khi gia đình ngưng thực hiện việc này, những sự quấy phá lại tái diễn. Chúng ngưng ngay lập tức khi gia đình tiếp tục thực hiện theo sự chỉ dẫn của nhà trừ quỷ.

Tôi cũng đã được hỏi về khả năng nhập vào quấy phá các vật nuôi trong nhà. Có thể có không? Chữa trị bằng cách nào? Phúc Âm thuật lại cho chúng ta rằng một sư đoàn ma quỷ xin Chúa Giêsu cho phép nhập vào đàn heo. Chúa Giêsu đã cho phép, và cả đàn đâm nhào xuống biển Gerasene (Mt 8, 28-33). Tôi biết có một nhà trừ quỷ không kinh nghiệm đã ra lệnh cho một tên quỷ nhập vào một con heo của một người nông dân. Con heo bỗng trở nên hung dữ và tấn công vợ anh ta. Khỏi phải nói, con heo lập tức bị giết chết. Đó là những trường hợp hiếm hoi, và mỗi lần chúng đều dẫn tới cái chết tức khắc cho con vật. Tôi cũng nghe nói về một ông thày mo đã dùng một con mèo của ông ta để phát tán các lá bùa của ông đến những nơi chúng đến; ở đây tôi muốn nói rằng chính ông chủ là người bị ám chứ không phải con vật. Người ta cũng thường nói rằng con mèo là một con vật "hấp linh" (absorbs sprits) và rằng các thần linh xấu mang dáng vẻ tựa một con mèo để không bị phát hiện. Đối với một số tay phù thủy và một số hình thức ma thuật, thì việc dùng mèo là căn bản. Tôi muốn làm sáng tỏ ra rằng đó chẳng phải là lỗi của con thú cưng dễ thương này.

Việc nhập vào những con vật là có thể xảy ra, và do đó, có việc làm phép để trừ khử. Trong trường hợp này, cũng như trong mọi trường hợp khác, nhà trừ quỷ phải khám phá ra những lý do đằng sau sự biểu hiện của quỷ. Rất cần sự hiểu biết để tránh lầm lạc, mặc dù tôi sẽ không nói đến vấn đề trong sách này.

Tôi sẽ lưu ý rằng ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, chúng ta đã thấy những trường hợp trừ quỷ được thực hiện trên nhà cửa, súc vật, và đồ vật. Trong số những vị khác, Ôrigênê chứng minh cho việc thực hành này. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo cũng nói ngay đến việc trừ quỷ không chỉ cho con người nhưng cũng còn cho cả các đồ vật nữa (1673).

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§14 - LỜI NGUYỀN RỦA

Tôi đã lưu ý rằng một lời nguyền rủa (curse) có thể gây cho một người vô tội bị tấn công bởi ma quỷ. Vì đây là trường hợp hết sức thông thường, tôi phải bàn giải nó cho rõ ràng. Tôi sẽ cố gắng dùng từ ngữ chuyên biệt. Không có một thuật ngữ được chấp nhận phổ quát; do đó, mỗi nhà văn phải định nghĩa thuật ngữ riêng của mình.

Lời nguyền rủa là một từ chung chung. Nó thường được định nghĩa là "sự làm hại người khác thông qua sự can thiệp của ma quỷ". Đây là một định nghĩa chính xác, nhưng nó lại không cắt nghĩa nguyên nhân của sự làm hại, cho nên vẫn còn mơ hồ. Chẳng hạn, một số người tin rằng lời nguyền rủa đồng nghĩa với bùa mê hoặc quỷ thuật. Theo ý kiến của tôi, bùa mê và quỷ thuật là hai loại lời nguyền rủa khác nhau. Tôi không đòi đưa ra một sự giải thích dễ hiểu, và tôi chỉ dựa vào kinh nghiệm của riêng tôi khi tôi định nghĩa những hình thức lời nguyền rủa sau đây. Chúng khác nhau nhưng không độc lập với nhau; thường đan xen lẫn nhau: (l) ma thuật đen (magic black), (2) lời nguyền rủa (curse), (3) bùa-nhìn (evil eye), và bùa mê (spell)

1. Ma thuật đen, hay quỷ thuật, hay các lễ nghi Satan mà tột điểm là lễ misa đen. Tôi sẽ trình bày những việc thực hành này dưới một đề mục vì tính loại suy của chúng. Tôi liệt kê chúng theo thứ tự quan trọng. Nét đặc trưng thông thường của chúng là đạt được một lời nguyền rủa chống lại một con người đặc biệt nào đó thông qua các nghi lễ hoặc công thức ma thuật - đôi khi rất phức tạp - bằng cách gọi ma quỷ, nhưng không kèm theo việc sử dụng các đồ vật đặc biệt. Bất cứ ai tự hiến mình cho những việc này thì trở nên tôi tớ của Satan tại lỗi của chính họ. Ở đây tôi sẽ bàn về chúng chỉ như những dụng cụ làm tổn hại người khác thông qua lời nguyền rủa.

Kinh Thánh cấm chỉ những việc thực hành này bởi vì chúng là một sự chối bỏ Thiên Chúa và quay về với Satan: "Giữa anh em, không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tường số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em" (Dnl 18, 10-12). "Các ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi" (Lv 19,31). "Khi người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp thì phải bị xử tử; người ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng" (Lv 20,27), cũng trong sách Lêvi 19, 26-31. Sách Xuất Hành cũng chẳng khoan dung hơn: "Đàn bà phù thủy, ngươi không được để cho sống"(Xh 22,17). Những nền văn hoá khác cũng trừng phạt ma thuật đen với án tử hình; dù cho thuật ngữ họ dùng có khác, thì ý nghĩa của chúng cũng rất rõ ràng. Tôi sẽ nói nhiều hơn về chủ đề này sau.

2. Những lời nguyền rủa (curse). Lời nguyền rủa cầu đến cái ác, mà nguồn gốc của mọi cái ác là ma quỷ. Khi lời nguyền rủa được nói ra với một sự bội bạc thực sự, đặc biệt nếu có mối liên hệ huyết thống giữa người nguyền rủa và người bị nguyền rủa, thì hậu quả thật khôn lường. Những trường hợp thông thường nhất mà tôi đã gặp gồm có cha mẹ hay ông bà nguyền rủa con hay cháu. Những hậu quả nghiêm trọng nhất xảy ra khi cái ước muốn xấu phạm đến mạng sống của một ai đó hoặc khi nó được phát ra vào một dịp đặc biệt, như dịp lễ cưới. Quyền bính và những mối dây liên hệ ràng buộc cha mẹ với con cái họ thì mạnh hơn bất cứ ảnh hưởng của người nào khác.

Tôi sẽ đưa ra ba thí dụ tiêu biểu về những lời nguyền rủa. Tôi đã giúp đỡ một chàng thanh niên mà cha của anh ta đã muốn sự dữ cho anh từ lúc mới sinh (rõ ràng là ông ấy không muốn đứa trẻ này) và ông ấy vẫn tiếp tục giữ thái độ đó suốt thời gian đứa con sống trong nhà. Người thanh niên đáng thương này phải chịu đau khổ từ nỗi bất hạnh rất dễ hiểu: anh ta kém sức khoẻ, không thể kiếm được việc làm, cuộc hôn nhân đầy khó khăn, con cái anh ta trở nên èo uột. Những cuộc trừ quỷ chỉ có thể giúp anh về mặt thiêng liêng, nhưng không giúp gì thêm nữa. Một trường hợp thứ hai là một phụ nữ trẻ muốn kết hôn với một thanh niên giầu có, người mà cô rất yêu mến. Cha mẹ cô chống đối, nhưng khi mọi nỗ lực của họ thất bại, họ đến dự đám cưới. Cùng ngày đó người cha đã dẫn cô con gái ra một nơi riêng nói vài lời bào chữa và xổ ra mọi lời độc dữ mà ông ta có thể nghĩ ra được để nguyền rủa cô, chồng cô và các con cái của cô trong tương lai. Và điều đó đã xảy ra bất chấp sự trừ quỷ và lời cầu mãnh liệt.

Một thí dụ nữa. Một hôm có một người đàn ông học thức đã đến gặp tôi. Ông thở hổn hển và đưa cho tôi xem đôi chân của ông, đầy những vết sẹo ghê gớm bởi một chuỗi những cuộc giải phẫu, và ông kể cho tôi câu chuyện của ông. Hồi cha ông còn là một thanh niên trẻ tuổi rất thông minh; bà nội ông đã muốn chàng trở nên một linh mục bất cứ giá nào, nhưng chàng không nghĩ là mình có ơn gọi. Dần dần cuộc sống trong nhà trở nên ngột ngạt, và chàng thanh niên phải bỏ nhà ra đi. Chàng tốt nghiệp đại học, trở nên thành công trong nghề nghiệp của mình, đã kết hôn và có con cái. Tất cả điều này xảy ra sau cuộc đổ vỡ dứt khoát với mẹ chàng, bà không chịu gặp chàng bất cứ vì lý do gì. Rồi người đàn ông này đã cho tôi xem tấm hình của ông được cha ông chụp hồi tám tuổi. Đó là bức hình một bé trai xinh đẹp với nụ cười quyến rũ, trong chiếc quần ngắn phơi đầu gối ra, và đôi vớ dài, đó là thời trang vào lúc bấy giờ. Cha ông đã có một ý tưởng không may là gửi bức hình này cho bà nội đứa trẻ, hy vọng nhìn thấy đứa cháu nội xinh đẹp bà sẽ nguôi giận và đồng ý làm hoà. Thay vào đó, bà đã gửi lại thông điệp này: "Chớ gì đôi chân của đứa trẻ luôn luôn èo uột, và nếu mày có khi nào trở về ngôi làng này thì mày sẽ chết trên chính cái giường mà mày đã sinh ra." Và đã xảy ra như vậy. Người đàn ông đã kể tiếp cho tôi rằng cha ông đã trở về làng nhiều năm sau khi bà mẹ qua đời, nhưng lập tức ông ngã bệnh; người ta đưa ông vào ngôi nhà xưa kia ông đã sinh ra, và ông đã chết ngay trong đêm ấy.

3. Bùa-nhìn (the evil eye). Đây là sự bỏ bùa bằng cách nhìn vào một người nào đó. Nó không xảy ra, như nhiều người nghĩ, bằng cách tin rằng một số người nào đó gây ra vận rủi chỉ bằng cách nhìn vào bạn; điều này vô lý. Bùa nhìn (evil eye) là một thứ bùa thực sự; nói cách khác, nó bao hàm một ý muốn làm hại một người đã được định trước với sự can thiệp của ma quỷ. Trong trường hợp này ý định bất chính được hoàn tất qua thị giác. Trong khi tôi chưa bao giờ có thể chắc chắn là một thứ bùa đặc biệt lại là kết quả của bùa-nhìn (the evil eye) và một cái nhìn đã đủ hay chưa, thì hậu quả đã rõ ràng. Nhiều khi người ta không biết được thủ phạm bỏ bùa là ai, và nó bắt đầu như thế nào. Điều quan trọng là nạn nhân không nên nghi ngờ mọi người mà họ đã gặp nhưng nên hết lòng tha thứ cho bất kỳ người nào đã gây sự dữ cho mình, bất kể là ai. Tôi muốn nhấn mạnh điều đó, trong khi tôi tin rằng bùa nhìn là có thể có, tôi không thể quả quyết rằng tôi đã đương đầu với nó trong kinh nghiệm của tôi như một nhà trừ quỷ.

4. Sự bỏ bùa ( cũng được gọi là sự gây ác hại (malefice) hay yểm bùa). Điều này còn xa với những ý nghĩa thường dùng nhất để chỉ việc hoàn thành điều ác. Danh từ (La ngữ là male factus) có nghĩa là làm ra cái ác, tức là làm hay tạo ra một số đồ vật với những chất liệu kỳ lạ và khác nhau. Vật này có một giá trị biểu tượng: đó là một dấu hiệu khả giác của ý muốn làm hại, và nó được dâng cho Satan để được in dấu quyền lực độc ác của nó. Người ta cũng thường nói là Satan bắt chước Thiên Chúa; trong trường hợp này chúng ta có thể dùng các bí tích theo loại suy. Các bí tích dùng chất liệu khả giác (chang hạn nước của phép rửa) như một dụng cụ của ân sủng. Trong việc bỏ bùa chất liệu được sử dụng như dụng cụ làm hại.

Có hai cách khác nhau để một việc bỏ bùa được áp dụng cho một mục tiêu xác định. Cách trực tiếp gồm việc pha trộn đồ vật được dùng làm bùa vào đồ ăn hay thức uống của nạn nhân. Như đã đề cập đến, cái này đã được chế tạo bằng những chất liệu rất khác nhau; nó có thể là kinh huyết; xương người chết; các loại tro khác nhau, thường là màu đen, các bộ phận của súc vật - dường như tim là hay được dùng nhất; các loại cỏ riêng biệt; và còn nhiều thứ nữa. Nhưng hiệu quả ác độc không nằm trong chất liệu nhiều cho bằng trong ý muốn làm hại thông qua sự can thiệp của ma quỷ. Điều này sẽ được biểu lộ trong các công thức quỷ thuật đen được ngâm tụng trong khi pha trộn chất liệu này. Hầu như luôn luôn những người bị bỏ bùa, bên cạnh những triệu chứng khác, họ phải chịu chứng đau dạ dày rất đặc trưng mà các nhà trừ quỷ rất quen và được chữa trị chỉ sau khi đã nôn mửa thật nhiều hoặc tống ra phân và những đồ vật lạ.

Cách thứ hai để áp dụng một sự bỏ bùa là cách gián tiếp (ở đây tôi qui chiếu thuật ngữ mà Cha La Grua dùng trong sách của ngài: cuốn La pregheiera di liberazione. Điều này cốt tại yểm bùa những đồ vật thuộc về người bị nhằm đến (các hình ảnh, y phục, hoặc những đồ vật khác của người đó) hoặc những hình ảnh tượng trưng cho người xấu số: những hình nộm, búp-bê, những con vật, và cả đến người thật cùng tuổi và giới tính. Điều này được gọi là chất liệu "chuyển tải", và nó bị hành với cùng những thứ bệnh như nhau được định cho nạn nhân. Một hình nộm là một thí dụ rất thông dụng: trong lễ nghi Satan này, những chiếc đinh ghim được cắm chung quanh đầu của hình nộm. Kết quả là nạn nhân bị đau đầu dữ dội và chạy đến nói với nhà trừ quỷ: "Đầu tôi như thể bị những chiếc kim nhọn sắc đâm thâu." Có thể là những chiếc kim, những móng tay, và những con dao được đâm vào thân hình nộm như một "vật thay mặt" cho nạn nhân. Thường thường kẻ xấu số cảm thấy cơn đau nhức nhối đâm thẳng vào chính những chỗ như thế. Một số người được gọi là nhà ngoại cảm", mà tôi sẽ nói đến sau, họ có thể nói với nạn nhân: "Bạn có một cái đinh xuyên qua bạn từ điểm này đến điểm kia", và vạch rõ cả những vị trí chính xác. Tôi đã nhìn thấy những người tống ra những chiếc đinh rất dài và kỳ lạ được làm bằng một chất liệu trông giống như plastic hoặc gỗ rất mềm từ chỗ đau và lập tức cơn đau được giải trừ. Thông thường sự giải thoát đi theo sau sự trục xuất những vật liệu hết sức bất thường: những sợi chỉ coton màu mè, những giải ruy băng, những móng tay, những cuộn giây kẽm.

Một sự bỏ bùa mang hình thức "trói buộc" đáng được lưu ý đặc biệt. Bất cứ chất liệu nào được dùng để chuyển tải sự dữ đều được buộc bằng sợi tóc hay những miếng vải màu mè (đặc biệt màu trắng, đen, xanh và đỏ, tuỳ theo kết quả được muốn). Chẳng hạn, khi để tấn công thai nhi của một bà có thai, một hình nộm đã được trói buộc từ cổ tới vùng rốn với một cây kim có xâu những sợi lông ngựa, với chủ ý làm méo dạng hài nhi bằng cách gây ra sự phát triển không bình thường các bộ phận trong vùng "bị buộc". Điều này thực sự đã xảy ra; may thay, sự tổn hại được chứng nhận là ít nghiêm trọng hơn dự định. Những sự trói buộc đặc biệt được dùng để ngăn cản sự phát triển một vài phần cơ thể, nhưng rất thường chúng được dùng để ngăn chặn sự phát triển tâm thần. Những trói buộc đầu óc khiến cho nạn nhân không có khả năng học hành làm việc hoặc hành xử bình thường. Khi sự bỏ bùa này thành công, các bác sĩ không thể xác định được nguồn gốc của căn bệnh và không thể chữa trị được.

Cũng thường hay xảy ra là bằng chứng của bùa thuật hiện ra dưới gối, chăn trong hình thức những vật lạ. Nếu tôi phải nói về những sự kiện kỳ cục khó tin mà tôi đã chứng kiến, thì nói chẳng bao giờ hết được. Tôi đã tìm thấy đủ mọi thứ, từ những giải ruy băng màu sắc được cột lại tới những bện tóc thắt chặt; những chuỗi thắt nút và len được bện dày bởi sức mạnh siêu nhân có hình dáng chiếc triều thiên; những con vật - đặc biệt là chuột nhắt - hoặc những hình dáng hình học; và những cục máu. Tôi đã nhìn thấy những thớt gỗ hoặc sắt, giây thép xoắn, và những hình nộm đầy những dấu vết nhọn sắc và tôi đã chứng kiến sự xuất hiện bất thình lình những bện tóc dày của phụ nữ và trẻ em. Tất cả những thứ này không thể cắt nghĩa nếu không có sự can thiệp của bàn tay vô hình. Đôi khi những vật lạ này không hiện hình khi gối hoặc chăn đệm được mở ra lần đầu, nhưng sau khi rảy nước thánh trừ quỷ, hoặc sau khi đưa ảnh tượng thánh ra - đặc biệt là tượng chịu nạn hoặc ảnh Đức Maria - thì những đồ vật kỳ lạ nhất mới hiện ra. Tôi sẽ trở lại chủ đề này ở những trang sau.

Bây giờ tôi tin là đã đến lúc lặp lại lời khuyên mà Cha La Grua đã khuyên trong cuốn sách của ngài đã nói ở trên, cuốn La preghiera di liberazione: "Dù điều tôi đã viết là kết quả của kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta cũng đừng quá dễ tin vào những thứ bùa ngải, đặc biệt những thứ được bỏ bằng những phương thế yểm bùa." Bùa ma thuật luôn luôn hiếm. Khi những lời phàn nàn được đem đến cho nhà trừ quỷ được phân tích ra, thì chúng hầu hết cho thấy đều có những nguyên nhân tâm lý cũng như là những nỗi sợ hãi gợi nhớ và giả tạo. Cũng vậy, những thứ bùa thường không thành công vì nhiều lý do, chẳng hạn, vì Thiên Chúa không cho phép sự dữ, hoặc nạn nhân lại là một người có đời sống cầu nguyện sâu xa và kết hợp với Thiên Chúa. Thêm nữa, nhiều tay phù thủy non tay ấn hoặc không đủ khả năng thực hiện; những kẻ khác chỉ là những thày mo; hoặc chính ma quỷ, "kẻ nói dối từ ban đầu", như Phúc Âm đã gán cho hắn, đã lừa dối các tôi tớ của hắn. Thật là một sai lầm trầm trọng khi sống trong nỗi sợ trở thành nạn nhân của bùa thuật. Kinh Thánh không bao giờ bảo chúng ta phải sợ ma quỷ; thay vào đó, chúng ta đã được bảo phải kháng cự lại nó và bảo đảm là nó sẽ phải chạy trốn chúng ta (Gc 4,7) và phải tỉnh thức đối phó với các cuộc tấn công của nó, bằng cách kiên vững trong đức tin của chúng ta (1Pr 5,9).

Chúng ta đã được ban cho ân sủng của Đức Kitô, Đấng đã đánh bại Satan bàng Thánh giá của Ngài; chúng ta có sự cầu bầu của Mẹ Maria, Đấng là kẻ thù của Satan từ khởi thủy loài người; chúng ta có sự trợ giúp của các thiên thần và các thánh. Hơn hết, nhờ phép rửa chúng ta đã được Ba Ngôi cực thánh niêm ấn. Nếu chúng ta sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, thì chính Satan và cả hoả ngục phải run sợ trước sự hiện diện của chúng ta - trừ khi tự chúng ta mở cửa cho nó.

Vì sự bỏ bùa là hình thức thông thường nhất của ảnh hưởng ma quỷ, nên tôi sẽ nói thêm một vài suy tư khác mà tôi đã hái lượm được qua kinh nghiệm.

Sự bỏ bùa có thể bao gồm những nét đặc trưng khác nhau, tuỳ theo mục đích mà nó được nhắm tới. Chẳng hạn, nó có thể được gọi là "bùa chia rẽ" nếu nó được chủ định để phân rẽ các đôi vợ chồng, các cặp đính hôn là những người đang yêu nhau, gây đổ vỡ mà chẳng có lý do gì bên ngoài, và chẳng thể giàn xếp hoà giải gì được. Về sau tôi tìm ra rằng một trong hai bên cha mẹ đã chống lại cuộc hôn nhân của họ và chạy lại với người thực hành ma thuật đen để phá vỡ sự hứa hôn. Loại bùa khác có thể được gọi là "bùa yêu", nó được dùng để khiến cho người ta phải lòng nhau. Tôi biết một cô gái phải lòng anh chàng vị hôn phu của cô bạn mình. Sau những cố gắng bất thành để làm cho chàng yêu mình, cô ta đã đi đến với một tên phù thủy. Thế là đôi tình nhân đã đính hôn kia chia tay nhau và anh chàng đó đã kết hôn với cô gái dùng bùa. Khỏi cần nói, đó là một cuộc hôn nhân ghê tởm; người chồng không thể nào lìa bỏ vợ được nhưng chàng đã chẳng bao giờ yêu nàng và luôn luôn có cảm giác rằng chàng đã bị ép phải lấy nàng.

Những loại bùa khác được gọi là "bùa gây bệnh nạn", bởi vì mục tiêu sẽ luôn là bệnh tật. Cái gọi là bùa tử có tên là "phá hoại". Trong trường hợp này, chỉ cần nạn nhân kêu cầu đến sự che chở của Giáo Hội: nói cách khác, là nạn nhân bắt đầu cầu nguyện, xin người khác cầu nguyện cho một cách mãnh liệt, và tìm đến sự trừ quỷ, và sự chết có thể tránh được. Tôi đã theo dõi nhiều trường hợp như thế; tôi đã từng nói rằng Thiên Chúa đôi khi can thiệp cách lạ lùng, hoặc ít ra bằng những đường lối mà nhân loại không thể cắt nghĩa được, để cứu những nạn nhân khỏi cơn nguy tử và, đặc biệt, khỏi sự cố gắng tự tử. Hầu như luôn luôn (tôi muốn nói là luôn luôn, ít nhất, trong những trường hợp mà tôi đã biết này), khi bùa ngải mạnh mẽ nó cũng bao gồm sự áp bức của ma quỷ ngay cả đến quỷ ám. Đó là lý do tại sao sự trừ quỷ là cần thiết. Những thứ bùa kinh tởm nhất có thể là những bùa được định để phá hoại toàn thể gia đình hoặc tấn công vào cả gia đình.

Qui tác số 8 trong sách Nghi thức về việc trừ quỷ cảnh báo chống lại việc chỉ dẫn những người đang là mục tiêu của những bùa chú đến tìm sự chữa lành nơi những tay phù thủy hay thày mo hoặc những cá nhân không phải là thừa tác viên của giáo hội. Việc sử dụng bất cứ hình thức mê tín dị đoan nào hoặc những phương pháp bất hợp lệ khác nhằm cố gắng để được chữa lành đều bị cấm chỉ. Kinh nghiệm dạy rằng lời cảnh cáo này là cần thiết. Những tay phù thủy thì rất đông; mà những nhà trừ quỷ lại ít ỏi. Không may, một số tác giả đã khuyên nên đi đến với thày phù thuỷ để xin giúp đỡ chống lại những bùa ngải, dù là bệnh nhân nghi ngờ rằng mình sẽ là mục tiêu cho một thứ bùa khác nữa. Một lời khuyên như thế là một sai lầm không thể tha thứ được, đặc biệt lại phát xuất từ những tác giả từng trải và đáng kính, trong những tác phẩm về mặt khác rất đáng ca tụng. Lời cảnh cáo này là đặc biệt quan trọng bởi vì cái xu hướng chạy đến với các tay phù thuỷ, thày cúng, thày mo và những loại như thế thì cũng xưa như trái đất. Bất kể những tiến bộ về mặt xã hội, văn hoá và khoa học, thói quen tham khảo ý kiến các nhà huyền bí dường như vẫn cùng tồn tại một cách dễ dàng trong "thế giới hiện đại" của chúng ta. Mọi tầng lớp xã hội, ngay cả những người học vấn uyên bác nhất, các kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, các nhà chính trị... đều dính vào đấy.

Qui tắc số 20 của sách Nghi thức gợi ý nên hỏi ma quỷ về nguyên nhân sự hiện diện của nó, đặc biệt hỏi xem có phải do nạn nhân ăn hoặc uống một thứ gì đó không. Nếu nguyên nhân là thế thì nhà trừ quỷ phải bắt nạn nhân mửa ra. Nếu bùa là do một số vật lạ, nhà trừ quỷ phải hỏi để biết vật đó đang dấu ở đâu, tìm nó và đốt nó đi.

Đó là tất cả những đề nghị thông dụng. Thực ra, khi đồ ăn thức uống dùng làm phương tiện chuyển tải một loại bùa, chúng ta sẽ luôn luôn phải đối phó với chứng bệnh đau bao tử, mà tôi đã đề cập đến ở trên; trong trường hợp này, sự giải thoát luôn luôn xảy ra qua những phương pháp vật lý. Việc sử dụng nước thánh, dầu, muối sẽ giúp rất nhiều cho tiến trình. Cũng có thể là một số đồ vật làm bùa được trục xuất ra bằng những cách lạ lùng như tôi đã cắt nghĩa: chẳng hạn, nạn nhân có thể bất thình lình cảm thấy một sức nặng kỳ lạ trong bao tử, cứ như là một cục đá. Sau một lát, anh ta thấy một cục đá trên mặt đất, và cơn đau biến mất. Những đồ vật khác - những giải màu, những dây thừng, và nhiều thứ khác - có thể được tìm thấy. Tất cả chúng phải được rảy nước thánh - nạn nhân cũng có thể tự làm điều này - rồi đem đốt chúng đi, ném tro xuống dòng nước chảy. Những vật nào không thể đốt được, như dây kẽm, cũng phải ném xuống dòng nước chảy, dòng sông hay cống nước cũng được. Đừng ném cái gì vào trong nhà cầu hay bể rửa; nếu làm thế, cả nhà sẽ bị lụt, hoặc mọi cống rãnh sẽ bị tắc.

Thường những đồ vật lạ thấy trong chăn, gối thì không do hỏi ma quỷ mà tìm thấy nhưng nhờ sự chỉ dẫn của những người nhạy bén và có uy tín - tôi sẽ trở lại đề tài này - mà sau đó nhà trừ quỷ được gọi đến. Về điểm này cũng cần phải đốt chăn gối ở ngoài cửa, sau khi rảy nước thánh trên chúng, và giải quyết tro như tôi đã nói ở trên.

Điều quan trọng là, trong khi những vật làm bùa đang cháy, mọi người phải cầu nguyện. Sự cẩn thận của chúng ta không bao giờ thừa, đặc biệt khi bùa được khám phá nhờ cơ may ma quỷ tiết lộ cho. Hồi tôi đang tập huấn, cha Candido kể cho tôi nghe về một sai lầm mà ngài đã mắc phải khi mới hành nghề.

Cha Candido và một linh mục nhiệt thành khác, cả hai đều được đức giám mục uỷ quyền để trừ quỷ cho một cô gái. Trong khi hỏi ma quỷ, các ngài khám phá ra rằng cô gái đang bị bỏ bùa. Các ngài hỏi để biết hình thức của nó, và đã được trả lời rằng đó là một cái hộp bằng gỗ lớn bằng bàn tay. Các ngài hỏi để biết chính xác vị trí và được trả lời rằng nó được chôn sâu ba bộ, gần một gốc cây. Đầy lòng nhiệt thành các ngài vác cuốc xẻng đi đào bới chỗ đó. Các ngài tìm thấy cái hộp, hệt như đã được nói, mở nó ra, và thấy một bức tượng khiêu dâm nằm giữa nhiều thứ tạp nhạp khác. Các ngài đã đổ cồn lên mọi thứ và đốt ngay lập tức mọi thứ một cách cẩn thận, cho tới khi chỉ còn lại một đống tro. Nhưng các ngài quên cầu nguyện trong suốt tiến trình, để cầu xin sự che chở của Máu thánh Đức Kitô. Các ngài đã đụng chạm vào những vật này mà không rửa tay ngay với nước thánh. Kết cục câu chuyện này là: cha Candido đã nằm liệt giường suốt ba tháng với chứng đau bao tử nghiêm trọng; những cơn đau này còn tiếp tục thêm mười năm nữa nhưng nhẹ hơn, và thỉnh thoảng nó vẫn còn tái lại. Đây là bài học nhớ đời, nhưng nó có ích cho tôi và cho bất cứ ai có thể ở trong tình huống tương tự.

Tôi đã hỏi cha Candido rằng sau tất cả sự khó nhọc và đau khổ đó, người thiếu nữ kia có được giải thoát không. Câu trả lời là không; cô ta không cảm thấy được lợi gì. Điều này dạy chúng ta rằng, đôi khi, bùa thuật gây được mọi thứ tổn hại khi chúng lần đầu tiên được đặt vào vị trí: việc tìm ra những đồ vật và phá hủy chúng về sau là vô ích. Tôi đã giải quyết nhiều trường hợp tương tự trong đó khoảng thời gian giữa lúc bỏ bùa và lúc tìm ra các đồ vật đã trải qua nhiều năm. Sự bỏ bùa đã hoàn tất mọi việc xấu xa của nó, và chẳng có lợi ích nào đạt được khi đồ vật được tìm ra và bị phá hủy. Điều trợ giúp về sau là việc trừ quỷ, cầu nguyện và các bí tích.

Trong những hoàn cảnh khác, việc đốt bỏ đồ vật cũng giải hết bùa; chẳng hạn, cái gọi là bùa giết người bằng vật thối rữa. Một lần kia, trong khi đang điều tra về một thứ bùa, tôi đã khám phá ra rằng một số thịt yểm bùa đã được chôn. May là nó đã được tìm thấy và được phá hủy trước khi thối rữa, và do đó, kẻ xấu số đã tránh được cái chết. Đôi khi các con vật được đem chôn sống, đặc biệt là những con cóc, để một túi không khí chung quanh để nó có thể thở được ít lâu. Nếu người ta tìm thấy nó trước khi nó chết, thì việc bỏ bùa đó bị thất bại. Tuy nhiên, dụng cụ chủ lực chống lại việc bỏ bùa là trừ quỷ, cầu nguyện, các bí tích và các á bí tích.

Tôi không thể nhấn mạnh cho đủ được tầm quan trọng của việc quay trở lại với Thiên Chúa và những phương pháp giải thoát của Ngài thay vì của một tay phù thủy hoặc một thày pháp, ngay cả khi chúng ta cảm thấy những đường lối của Thiên Chúa thì không nhanh chóng. Chúa ban cho chúng ta quyền năng danh Ngài, sức mạnh của lời cầu nguyện - cả của cá nhân cả của cộng đoàn, và sự cầu bầu của Giáo Hội. Đến với một tay phù thuỷ, với một người nào đó che dấu các hành động của nó dưới danh xưng giả mạo là "ma thuật trắng" (thực tế nó luôn luôn gọi sự trợ giúp của Satan, cũng như bất cứ kẻ nào dùng một thứ bùa để trừ bùa), thì chỉ có thể làm cho sự dữ trầm trọng thêm. Phúc Âm nói về ma quỷ khi rời bỏ một linh hồn sau đó nó trở lại với bảy quỷ khác dữ dằn hơn nó (Mt 12, 43-45). Đây là điều xảy ra khi chúng ta chạy lại với phù thuỷ. Tôi sẽ cho ba thí dụ tiêu biểu.

Thí dụ thứ nhất: có người bắt đầu cảm thấy đau đớn thể lý. Anh ta thử nhiều thày nhiều thuốc, nhưng cơn đau cứ tăng chứ không giảm; không tìm ra nguyên nhân. Lúc đó anh ta đi đến với thày phù thủy, đến với một tay bói bài là những người thực hành ma thuật, và họ nói với anh: "Anh đã bị bỏ bùa. Nếu anh muốn, tôi sẽ trù bùa cho anh. Tôi chỉ đòi anh một nghìn Dollars thôi." Bệnh nhân suy nghĩ một lúc, rồi trả tiền. Đôi khi hắn đòi một tấm hình chụp, một thứ y phục thiết thân, hoặc một lọn tóc. Sau vài ngày bệnh nhân cảm thấy khoẻ và tin chắc rằng mình đã sài tiền một cách khôn ngoan. Vậy là, ma quỷ đã rời đi. Sau một năm những cơn đau tương tự bắt đầu xuất hiện lại. Nạn nhân đáng thương lại bắt đầu đi hết bác sĩ này đến bác sĩ kia, nhưng y khoa càng ngày càng trở nên bất lực, và cơn đau cứ gia tăng thê thảm. Khi không còn cách nào nữa, nạn nhân tự nhủ: "Thày phù thủy kia đòi tôi có một nghìn Dollars, nhưng làm tôi hết bệnh." Lúc đó anh ta trở lại, mà không nhận ra rằng chính thày phù thủy đó đã làm cho bệnh của anh ta nặng thêm.

Lần này tay phù thủy nói với anh ta: "Bùa của anh lần này nặng hơn bùa lần trước. Tôi sẽ giải trừ cho anh, và chỉ lấy năm ngàn Dollars thôi; tôi sẽ đòi giá gấp đôi nếu tôi chữa cho những người khác đấy". Và thế là nạn nhân lại bắt đầu mọi sự; nếu cuối cùng anh ta quyết định đến với nhà trừ quỷ, anh ta hẳn phải được giải thoát không chỉ khỏi sự dữ ban đầu mà cũng khỏi sự dữ lớn hơn bị gây ra bởi tên phù thủy nữa.

Thí dụ thứ hai; cũng như thí dụ trên. Bệnh nhân trả tiền, được chữa lành bởi phù thủy. Tuy nhiên, cơn bệnh của anh ta lại truyền sang vợ, con, cha mẹ, và anh chị em ruột của anh ta. Trong trường hợp này sự dữ cứ tăng lên nhiều thêm. Nó có thể mang hình thức của một chủ thuyết vô thần ngoan cố, một đời sống tội lỗi, một loạt các tai nạn xe cộ, những rủi ro, tuyệt vọng...

Thí dụ thứ ba, cũng như thí dụ một và hai: bệnh nhân được chữa, và sự chữa trị vẫn còn công hiệu. Tuy nhiên, sự dữ đó về nguồn gốc đã được Thiên Chúa cho phép xảy ra để cho nạn nhân đền tội, để khích lệ nó bắt đầu một đời sống cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích và trở về với Giáo Hội. Mục đích của căn bệnh đó là đưa đến những kết quả thiêng liêng lớn lao cho phần rỗi linh hồn nó. Khi nó nhờ sự can thiệp của ma quỷ để chữa lành bệnh, thì sự qui hồi mà Chúa muốn đem đến qua cơn bệnh sẽ không xảy ra.

Chúng ta phải hiểu rõ thực tế rằng Thiên Chúa cho phép những cơn thử thách xảy ra vì thiện ích của riêng chúng ta. Ngài cho phép có Thánh giá chỉ vì nó dẫn chúng ta lên thiên đàng. Chân lý này thật hiển nhiên, chẳng hạn, khi những người được ban cho những đặc sủng riêng biệt thì hay bị nhiều đau khổ hành hạ. Trong những trường hợp này chúng ta phải cầu xin để được chữa lành. Mọi người đều nhớ cha thánh Pio, người mà suốt năm mươi năm phải chịu những đau đớn nhức nhối của các dấu đanh. Đâu có ai nghĩ đến việc xin Chúa cất những dấu đanh; điều đó quá rõ ràng rằng đây là những phương pháp Thiên Chúa dùng vì một kết quả thiêng liêng lớn lao. Ma quỷ thì ranh mãnh; nó quá muốn cất các dấu vết của cuộc thương khó của Chúa cho khỏi thân xác cha Pio đi chứ! Sự trái ngược cũng có, khi chính ma quỷ là kẻ gây ra các dấu đanh và đưa ra những nhà thần bí giả.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§15 - NÓI THÊM VỀ MA THUẬT

Ma thuật bao gồm một phạm vi rộng lớn các chủ đề. Các sách về chủ đề này nhiều đến nỗi đầy ắp cả một thư viện. Ma thuật được thực hành suốt dọc lịch sử loài người và bởi mọi nền văn minh. Ngày nay nhiều người vẫn còn sa vào nanh vuốt của nó. Nhiều linh mục đánh giá quá thấp về sự nguy hiểm của ma thuật. Trong khi họ vẫn nghiêm chỉnh tin vào quyền năng cứu độ của Chúa Giêsu, Đấng đã chết để giải phóng chúng ta khỏi xiềng xích của Satan, thì họ lại quên rằng Chúa không bao giờ bảo chúng ta đánh giá thấp về quyền lực của ma quỷ; Ngài không bao giờ bảo chúng ta coi thường ma quỷ hoặc ngưng chiến với nó. Thay vào đó, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta quyền năng trừ quỷ và khuyên chúng ta không ngừng chiến đấu chống lại nó là kẻ chuyên "giần sàng"chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã trải qua những cơn cám dỗ bởi Satan và tỏ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng chúng ta không thể làm tôi hai chủ.

Điều rất rõ ràng là Kinh Thánh cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều cảnh báo chống lại ma thuật và các thầy phù thủy. Kinh Thánh cảnh báo chúng ta rằng ma thuật là một trong những biện pháp thông dụng nhất được ma quỷ sử dụng để trói buộc con người và làm cho họ mất tính người. Một cách trực hoặc gián tiếp, ma thuật là một sự thờ lạy Satan. Những người thực hành bất cứ loại ma thuật nào tin rằng họ có thể điều khiển những quyền lực cao hơn, nhưng trong thực tế chính họ là người bị điều khiển.

Những tay thầy mo tin rằng họ làm chủ cả sự thiện lẫn sự dữ. Những tay đồng cốt và những người theo thuyết duy linh gọi những hồn linh mạnh mẽ hoặc hồn của những người chết về, mà lại không nhận ra rằng họ đã trao chính thể xác và linh hồn mình cho những quyền lực ma quỷ. Cho dù nó không rõ ràng trực tiếp, những hồn linh mạnh mẽ này luôn luôn sử dụng những tay sai vào những mục đích phá hoại. Khi con người tách lìa khỏi Thiên Chúa, nó ra nghèo nàn và bất hạnh; nó không thể nào hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và thậm chí cũng chẳng hiểu gì về ý nghĩa của những gian truân, đau khổ và sự chết. Nó trông đợi hạnh phúc mà thế gian này đưa ra như một miếng mồi: sự giầu sang, quyền lực, sức khỏe, tình yêu, khoái lạc, và sự ngưỡng mộ. Dường như ma quỷ đang nói rằng "nếu anh thờ lạy tôi, tôi sẽ tặng anh tất cả" (Lc 4, 6-7).

Thế nên chúng ta thấy mọi người - trẻ cũng như già, các phụ nữ, các công nhân, các chức nghiệp, các chính trị gia, và các nghệ sĩ - đều tìm kiếm "sự thật" về tương lai của họ. Họ luôn luôn tìm đến các thày phù thủy, thày bói, nhà chiêm tinh, người bói bài, các nhà chuyên môn nào đó, và các người tiên đoán vận mệnh đủ loại. Họ đến do tình cờ, hoặc vì hy vọng hay thất vọng, hoặc như một cuộc thí nghiệm. Một số trở nên nạn nhân, số khác bị bó buộc, những người khác nữa gia nhập hẳn vào giáo phái.

Đằng sau tất cả những điều này là gì? Người không biết thì tin rằng đó chỉ là sự mê tín dị đoan, sự tò mò, sự ảo tưởng, sự lừa bịp; thực tế, đó là nguồn tiền béo bở. Thực ra, ma thuật không chỉ là một sự mê tín ngớ ngẩn, một cái gì đó không có cơ sở; nó cũng là một sự cậy nhờ những quyền lực ma quỷ để gây ảnh hưởng trên tiến trình các biến cố hoặc để điều khiển người khác để trục lợi cá nhân. Hình thức tin tưởng lệch lạc này, tiêu biểu giữa các dân tộc thời sơ khai, vẫn còn dai dẳng qua thời gian và tiếp tục tồn tại song song với nhiều tôn giáo trong mọi quốc gia. Mặc dù nó có nhiều hình thức, nhưng kết quả vẫn là một: làm con người lìa xa Thiên Chúa để dẫn nó đi vào tội lỗi và chết phần linh hồn.

Có hai loại ma thuật: mô phỏng và lây truyền. Ma thuật mô phỏng dựa trên ý niệm tương tự trong hình thức và thực hành - nó vẫn dựa trên nguyên tắc là mọi sự đều sinh ra một cái gì đó tương tự. Người ta sẽ lấy một hình nộm làm mục tiêu, và vừa đọc "những câu thần chú" thích hợp, vừa lấy dùi đâm vào hình nộm, lúc đó nạn nhân cũng sẽ cảm thấy bị đâm và bắt đầu đau đớn hoặc sinh ra bệnh tật nơi chính phần thân thể đã bị đâm trên hình nộm. Loại ma thuật lây truyền dựa trên nguyên tắc tiếp xúc thể lý, hoặc lây truyền. Để gây ảnh hưởng trên nạn nhân, người phù thủy phải có được một vật gì đó của họ, như là tóc, móng tay, y phục. Một bức ảnh cũng được, tốt hơn là bức ảnh toàn thân; khuôn mặt không được che đậy. Trong loại ma thuật này, một phần đại diện cho toàn phần. Nói cách khác, điều gì được làm cho một phần sẽ ảnh hưởng đến toàn thân. Vậy người phù thủy sẽ dùng những công thức hoặc nghi thức thích hợp trong thời gian định trước về năm và về ngày. Công việc xấu xa sẽ được thực hiện nhờ sự can thiệp của các hồn linh mà hắn ta kêu cầu. Chúng tôi đã nói về loại này khi nói về bùa chú, nhưng ma thuật bao gồm nhiều lãnh vực rộng lớn hơn bùa chú, và lớn lao hơn bùa- nhìn (the evil eye).

Một trong những nghi thức nhập môn ma thuật, các tay thày mo ở đảo Green Cape nói rằng: trong lúc làm nghi thức, ứng sinh sẽ đứng trước một tấm gương nhờ đó chính Satan sẽ xuất hiện để ban cho nó "quyền lực" và trao vào tay nó những vũ khí mà nó sẽ sử dụng. Những vũ khí mà người Kitô hữu dùng chống lại "tiếng sư tử gầm rống" là sự thật, sự công chính, đức tin, và thanh gươm hai lưỡi là Lời Chúa. Thay vào đó, tên thày mo sẽ có một thanh gươm thật để đả thương người. Hắn sẽ có khả năng phá hoại, nguyền rủa, thấy trước, ở hai nơi, chữa bệnh, và nhiều hơn nữa, tùy theo cái mà hắn đã được trông đợi để hoàn thành việc phá hoại kế hoạch của Thiên Chúa và tùy vào những gì mà hắn có thể dâng cho Satan. Ngoài bản thân mình ra, hắn có thể dâng cả con cái và những kẻ ít nhiều ngây thơ khác, là những kẻ tìm đến xin hắn giúp đỡ. Nạn nhân của ma thuật sẽ cảm thấy dị ứng với tất cả những gì là thánh thiêng - kinh nguyện, nhà thờ, ảnh tượng. Thay vào đó đời sống của hắn sẽ đầy tràn mọi thứ hình thức ác độc không lường trước được.

Một khi việc cúng tế đã được thực hiện, và các món hàng được yêu cầu (bất kể nó tầm thường như thế nào) đã được đáp ứng, thì người đứng ra thuê thày phù thủy thường sẽ bị ảnh hưởng. Ông thày mo sẽ gây ảnh hưởng bằng cách gợi ý bắt tổ chức lễ lạc như đi viếng thăm bảy nhà thờ, đốt những cây nến theo cách riêng biệt, rắc một thứ bột đặc biệt, hoặc bắt buộc mang những đồ vật được chỉ định. Nhờ những nghi lễ này nạn nhân giao kèo ràng buộc nhiều ít với ma quỷ; hậu quả đến với thể xác và linh hồn thì luôn tiêu cực. Nhiều lần những bà mẹ đem con cái của họ đến với những thầy phù thủy, những tên này cho chúng những món đồ để mang trong người - khi có chuyện rắc rối xảy ra, một số đã đến tìm tôi xin giúp đỡ. Trước con mắt không kinh nghiệm thì những món đồ này trông giống như những vật tầm thường, nhưng vì những hậu quả xấu ác, chúng chứng tỏ là những thứ bùa thực sự. Nếu chúng ta phiêu lưu đi vào địa hạt của kẻ thù, chúng ta sẽ rơi vào vòng quyền lực của nó dù là chúng ta hành động "theo đức tin tốt lành", và chỉ có bàn tay quyền năng của Thiên Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi những thừng chão mà chúng ta đã tự trói buộc mình.

Những hành động của cái gọi là ma thuật cao có thể được xếp thành từng loại: sacralization, consecration, blessings, destitutions, excommunications và curses. Mục đích của tất cả những hoạt động này là biến đổi các đồ vật và người ta thành "những biểu tượng được cúng hiến" dĩ nhiên là hiến cho Satan. Chất liệu ma thuật được "thu hút" vào những thời điểm đặc biệt; đó là những đối tượng của ma thuật chiêm tinh. Mỗi thày phù thủy mang một cái huy hiệu ngôi sao năm cánh (pentacles) và cũng cho những người khác mang như vậy. Danh từ đó phái sinh từ tiếng Hy lạp panta-klea. Thường thường chúng là những cái mề đay biểu tượng cho "những xúc tác năng lực". Theo thày phù thủy, những biểu tượng này sở hữu một quyền lực đặc biệt trên trời, và chúng ta đừng lẫn lộn chúng với miếng bùa hộ mệnh (talisman). Miếng bùa hộ mệnh là một vật thể hiện cái riêng biệt của người mang nó nhằm tìm kiếm sự bảo vệ. Miếng bùa hộ mệnh là rất quý giá đối với những khách hàng xấu số là những người cảm thấy bị đánh sụp bởi vận rủi, những sự hiểu lầm, sự thiếu tình yêu, hoặc sự nghèo nàn, và những ai lấy làm vui mừng trả cho ông thày bùa những món tiền ông đòi hỏi, đôi khi với giá cắt cổ, vì ông đã cho họ những "lá bùa may mắn" để giải thoát họ khỏi những vấn đề rác rối. Rốt cuộc, họ lại tự vác vào thân một thứ năng lực xấu xa, không những sẽ làm hại họ mà còn hại cả gia đình họ nữa. Nhang cũng được dùng trong số các đồ vật dùng vào các hoạt động ma thuật. Nhang này được dâng cúng cho Satan và rõ ràng là bắt chước nhang phụng vụ mà chúng ta dâng kính Thiên Chúa.

Những hình thức ma thuật khác dạy cho các phù thủy cách định lượng liều thuốc và pha chế thế nào để đem lại cảm giác quỷ quái nơi những người sẽ dùng thuốc được trộn lẫn vào đồ ăn thức uống của họ. Nạn nhân sẽ tìm thấy không chỉ những đồ vật ghê tởm trong thể xác mình mà còn thấy những ác thần được cầu khấn trong suốt quá trình pha chế của các phù thủy. "Liều thuốc yêu" nổi tiếng - nó có thể cưỡng bức một mối quan hệ ghê tởm (cũng gọi là "bắt buộc") - không là gì khác hơn là một màn trình diễn quyền lực ma quỷ.

Kinh Thánh nói về ma quỷ lần đầu khi nó cám dỗ tổ tông chúng ta dưới hình con rắn. Trong thần thoại, con rắn luôn luôn liên hệ với hiện thân của tri thức. Ở Ai-cập, chính phù thủy Isis người biết các bí mật về đá, cây cối, và súc vật. Nàng biết các bệnh tật và các cách chữa trị; do đó, nàng có thể làm sinh động lại thân xác của Osiris. Con rắn luôn luôn được trình bày cuộn lại trên chính mình nó, với cái đuôi ở trong miệng - một biểu tượng của chu kỳ sự sống vĩnh cửu. Chúng ta cũng có thể nhớ lại con trăn co mình lại của hoàng đế Ica, hoặc con trăn thiêng của dân Ấn-độ.

Trong tà thuật, con rắn lưỡng tính Danbhalah và Aida Wedo chỉ dẫn cho các kẻ theo nó với một sự chắc chắn và chính xác đem lại những kết quả tuyệt vời vào bất cứ giờ nào ngày cũng như đêm. Con rắn này cho là mình biết tất cả những bí mật của Ngôi lời Sáng tạo thông qua "ngôn ngữ ma thuật", mà quyền năng của nó được tăng thêm nhờ những bản nhạc ma quái. Đây là ma thuật của dân Haiti cùng với thứ ma thuật có gốc Phi Châu và Nam Mỹ - đặc biệt là từ nước Brazin - được gọi là "macumbe" và chúng có sức mạnh gian ác thật khôn lường. Tôi đã đề cập đến những loại bùa hóc búa nhất mà tôi đã từng trừ khử đến từ Brazin hoặc Châu Phi.

Nền văn minh hiện đại trộn lẫn các phong tục với nhau chứ không thay đổi chúng. Do đó, khoa học và ma thuật, tôn giáo và các tập tục cổ xưa cùng tồn tại trong thế giới của chúng ta. Thậm chí ngày nay, đặc biệt ở những khu vực thôn quê bên Ý, rất nhiều người có đạo lại quay về với các tay phù thủy như một liệu pháp chữa đủ mọi thứ bệnh, từ bệnh tật tới bùa-nhìn (evil eye), để tìm việc làm hoặc kiếm một ông chồng chẳng hạn. Chúng tôi đang nói về những người tốt "những người luôn luôn đến nhà thờ". Cũng như một số bà mẹ vẫn dạy con cái họ, trong đức tin tốt lành, về cử chỉ, lời nói phải làm sao để tránh khỏi bùa-nhìn (the evil eye) vào ngày áp lễ Giáng sinh; hoặc họ đeo vào cổ con cái họ - kèm theo với sợi giây đeo ảnh chuộc tội hay các ảnh thánh - chùm lông con lửng, răng chó sói, hoặc những chiếc sừng đỏ. Đó là tất cả những đồ vật mà, cho dù chúng không "nhiễm" sự tiêu cực qua những nghi lễ ma thuật, thì cũng liên kết với Satan qua tội mê tín dị đoan.

Ma thuật luôn luôn liên kết với bói toán, tức là thử thời vận để biết tương lai của chúng ta bằng những đường lối bất chính. Chúng tôi chỉ phải nghĩ về thói tục phổ biến là bói bài - bằng cách hỏi cỗ bài tarot để biết tương lai - đây là phương pháp bói rất thông thường được dùng bởi các tay phù thủy và những tay thày bói. Người ta tin rằng nguồn gốc của bộ bài tarot đã có từ thế kỷ thứ mười ba. Nó được hướng dẫn bởi những mụ thày bói, là những người cô đọng năng lực biết trước tương lai trong "trò chơi" bài này. Cốt lõi của trò chơi này là một nguyên tác huyền bí thiết định mối liên hệ giữa con người và thế giới thần linh. Tôi sẽ không triển khai về chủ đề này. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng những con người ngây thơ, ngỡ ngàng vì thấy quá khứ của mình được nói ra một cách chính xác, ra về trong sự thất vọng hoặc tràn đầy những hy vọng hão huyền. Họ thường trở nên nghi ngờ gia đình và bạn bè, và đặc biệt họ sẽ hình thành thói nghiện coi bói bài, nó sẽ kéo dài mãi về sau và gây cho họ những cảm giác sợ hãi, cuồng dại và bấp bênh. Họ lúc nào cũng muốn chạy lại với những trò ma thuật hoặc muốn mua những thứ bùa để đối phó với kẻ thù bên trong, mà chính họ đã mở cửa cho chúng vào để rồi chúng lại gây cho họ bệnh tật và những nỗi bất hạnh...

Ma thuật kinh ác nhất gốc từ châu Phi dựa trên phép phù thuỷ - mà mục đích của nó là làm hại người khác thông qua ma thuật - và dựa trên Thuyết thông linh - nó nhằm tiếp xúc với hồn người chết hoặc các quỷ thần cao hơn. Thuyết thông linh có mặt và được thi hành ở mọi quốc gia và mọi dân tộc. Ông đồng bà cốt là người làm trung gian giữa các thần linh và con người, họ cho các thần linh mượn năng lực của mình (tiếng nói, các cử điệu, chữ viết...) để các thần linh bộc lộ mình ra. Có thể xảy ra là các thần linh này - thường là và luôn luôn là ma quỷ - sẽ nhập vào một số người trong cuộc lên đồng. Giáo Hội luôn luôn cấm lên đồng và cấm tham dự vào đó. Chúng ta không bao giờ học được bất cứ điều gì lợi ích bởi tham vấn Satan.

Có thực là không thể gọi hồn người chết được không? Có phải luôn luôn chỉ có ma quỷ hiện lên trong các buổi gọi hồn không? Chúng ta biết rõ rằng chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất gây cho các tín hữu sự nghi ngờ. Kinh Thánh thuật lại cho chúng ta rằng vua Saolê tìm đến bà đồng và xin: "Xin bà ngồi đồng mà bói cho tôi, và hãy gọi lên cho tôi người tôi sẽ nói cho bà." (lSam 28,8), thế rồi tiên tri Samuel, người đã qua đời trước đó ít lâu đã thực sự hiện lên. Thiên Chúa cho phép trường hợp ngoại lệ này, nhưng chúng ta nên chú ý đến tiếng kêu kinh ngạc của bà đồng và lời khiển trách khắc nghiệt của Samuel: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà quấy rầy tôi?" (lSam 28,15). Người chết phải được kính trọng và không bị quấy rầy. Vì đây là lần duy nhất xảy ra trong toàn bộ Kinh Thánh nên tôi muốn coi đó như một ngoại lệ. Tôi rất đồng ý với những bản văn của một nhà tâm lý và là nhà trừ quỷ tin lành: "Thật là ích kỷ và độc ác khi cố gắng và bám víu lấy người quá cố của chúng ta, hoặc muốn gọi họ trở lại với chúng ta. Điều mà họ cần là sự giải thoát vĩnh viễn, và không bị rằng buộc lại với những sự vật và con người trong thế giới này" (Kenneth McAll, Fino alle radici [Ancora], p.141).

Nhiều người bị lừa do thiếu đức tin và do không biết. Việc tán thành một vài vũ điệu, bài hát, y phục và súc vật vốn được dùng trong các nghi lễ ma thuật khác nhau có thể là rất hứng thú theo quan điểm dân gian. Bốn cây nến tại bốn góc đường hoặc một bộ nến ba cây mà người ta bày ra đất, có thể biến thành một trò chơi hoặc một trò mê tín vô hại. Đây là lúc để chúng ta thực sự xem xét nó. Tôi đặc biệt gởi lời kêu gọi này đến các linh mục: "Đó là tất cả những chước cám dỗ kêu cầu các thần khí quỷ ma có thể có hoặc có thể không có hại cho ai, nhưng mục tiêu cuối cùng của chúng thì luôn luôn là phân rẽ nạn nhân ra khỏi Thiên Chúa, để dẫn họ đến với tội lỗi, lo âu, xa lánh, và thất vọng.

Tôi đã được hỏi xem có thể nào cả một cộng đồng bị ma thuật tác hại không. Tôi phải trả lời là có; tuy nhiên, chủ đề này cần được nghiên cứu lại riêng toàn bộ, và do đó, tôi sẽ giới hạn bài phê bình vào một vài điểm. Ma quỷ rất có thể dùng một người để tác hại thậm chí cả một nhóm người rất đông - những nhóm này có thể tiếp tục gây ảnh hưởng đến cả một hay nhiều quốc gia. Ngay trong thời đại chúng ta, tôi tin rằng đây là trường hợp của những người như Karl Marx, Hitler, và Stalin. Những sự tàn bạo của Đức quốc xã, những nỗi kinh hoàng của cộng sản, những sự tàn sát của Stalin chẳng hạn, đã đạt tới tầm cỡ của ma quỷ. Ngoài lãnh vực chính trị, tôi không ngần ngại nói đến một số âm nhạc như là một dụng cụ của Satan, như sự điên cuồng mà một số ca sĩ kích động lên trong những đám đông, thường lên đến tột đỉnh của sự phá hoại và bạo lực cực điểm.

Có những trường hợp khác của ảnh hưởng ma quỷ, dễ kiểm soát và chữa lành - mặc dù những sự ám ảnh tập thể vẫn luôn luôn là khó chữa. Một số trong những trường hợp này bao gồm toàn thể lớp học, hiệp hội, cộng đồng tu trì... Khả năng ma quỷ lừa dối và đem những lầm lạc hết sức tệ hại vào các nhóm thật khó mà tưởng tượng được. Có những người nhất định cho rằng ma quỷ lừa dối cả một cộng đoàn dễ hơn lừa dối một cá nhân đơn lẻ. Chắc chán rằng ma quỷ có thể lừa dối cả những cộng đồng rất lớn; tuy nhiên, hầu như luôn luôn rõ ràng là sự đồng ý của con người cũng dính líu vào, tức là tội con người tự do chấp nhận các hoạt động của Satan. Những động lực của sự chấp nhận này thì có nhiều: như sự giầu sang, quyền lực, thói hư tật xấu, và còn nữa.

Hậu quả tàn phá bởi ảnh hưởng của Satan trên các cộng đồng thật là thảm khốc. Đây là lý do vì sao các Đức Thánh Cha, đặc biệt các vị gần đây, kiên quyết cảnh báo chúng ta - chẳng hạn, diễn từ của Đức Thánh Cha Phaolô VI ngày 15.11.1972 và của Đức Gioan Phaolô II ngày 20.8.1986.

Satan là kẻ thù tồi tệ nhất của chúng ta, và nó sẽ vẫn mãi là như thế cho đến tận cùng thời gian. Do đó, nó dùng tất cả trí năng và quyền lực của nó để cố gắng cản trở kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng muốn cứu rỗi tất cả mọi người. Sức mạnh của chúng ta là Thánh giá, máu thánh, và các thương tích Đức Kitô, và sự vâng phục Lời Ngài và hội thánh của Ngài.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§16 - AI CÓ THỂ TRỪ QUỶ

Tôi thiết tưởng tôi đã làm sáng tỏ một cách đầy đủ rằng Chúa Giêsu đã ban quyền trừ quỷ cho tất cả những ai tin vào Ngài và hành động nhân danh Ngài. Tôi đang ám chỉ đến kinh nguyện riêng, mà chúng ta có thể gọi chung là "kinh nguyện giải thoát".

Các nhà trừ quỷ tiếp nhận một quyền năng phụ thêm đặc biệt. Tôi đang nói về các linh mục được đức giám mục chỉ định đặc biệt. Khi sử dụng những công thức và những kinh nguyện mà sách nghi thức gợi ý, các linh mục này cử hành á bí tích bao gồm sự cầu bầu của giáo hội, khác với kinh nguyện tư.

Luôn luôn cần nhiều đức tin, nhiều lời cầu nguyện và ăn chay: về phía cả những người cầu nguyện giúp và những người mà chúng ta cầu nguyện cho. Luôn luôn rất là tốt nếu một nhóm người tụ tập lại để đồng thời cầu nguyện cho, nhưng tách biệt khỏi, một cuộc trừ quỷ. Tất cả các linh mục, dù họ không phải là những nhà trừ quỷ, đều có quyền năng đặc biệt phát sinh từ thánh chức của họ. Đây không phải là một danh dự cho con người họ nhưng là một sự phục vụ cho nhu cầu thiêng liêng của tín hữu; việc giải thoát khỏi những ảnh hưởng ma quỷ, là một trong những điều đòi buộc một vị linh mục. Mọi người có thể dùng những phương pháp thông thường để đạt được ân sủng - như đọc những kinh giải thoát - đọc riêng hoặc đọc đang khi có cuộc trừ quỷ: chẳng hạn. đặt một cây Thánh giá, hoặc chuỗi hạt mân côi, hoặc những di vật thánh nào đó trên đầu nạn nhân. Di vật thánh của Thánh giá là hiệu nghiệm nhất, bởi vì chính bởi Thánh giá mà Chúa Giêsu đánh bại vương quốc Satan. Di vật của các thánh bổn mạng của chúng ta cũng rất công hiệu, thường chỉ cần bức ảnh thánh đã làm phép, như bức ảnh vẽ chân dung thánh tổng thần Micae mà ma quỷ đặc biệt khiếp sợ.

Tôi thiết tưởng tôi sẽ làm các độc giả thất vọng nếu tôi không ít là đá động đến cái mà bây giờ là một đạo quân thực sự gồm những người tự xưng là người có đặc sủng, những thị nhân, những nhà cảm xạ, những nhà trị bệnh bằng khí công (prana), những người chữa bệnh và cả những mụ lang băm nữa. Đó là những nhóm người rất bao quát còn hơn thế nữa, vì các giám mục và hàng giáo sỹ, một cách hời hợt đi từ chỗ không tin gì hết đến chỗ chẳng quan tâm gì, các ngài đã bỏ bê lãnh vực mục vụ này là lãnh vực vốn thuộc về các ngài cách riêng. Tôi sẽ dành ra một chương để nói về chủ đề này kỹ hơn. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ bàn về những người vừa được đề cập đến ở trên.

Trước hết, tôi sẽ nói về những người có thể - hoặc tự coi là mình có thể - đem lại sự giải thoát, nhưng lại chỉ nhằm đến việc chữa lành. Thật khó mà phân biệt rõ ràng được trong lãnh vực này. Ma quỷ là cội rễ mọi thứ bệnh tật, đau khổ, tội lỗi, chết chóc: vì những thứ ấy là các hậu quả của tội lỗi. Nhưng cũng có những bệnh tật được trực tiếp gây lên do ma quỷ. Phúc Âm đề cập đến một số trường hợp như thế: người đàn bà bị bại liệt mười tám năm và một người câm điếc. Cả hai trường hợp, sự hiện diện của Satan đã gây ra bệnh tật, và Chúa đã chữa lành cho bằng cách trừ ma đuổi quỷ. Theo kinh nghiệm mà tôi đã nói qua trước đây là rất hữu dụng - nếu một căn bệnh có nguồn gốc từ ma quỷ thì không có thứ thuốc nào có thể trị được, chỉ trừ có lời cầu nguyện và sự trừ quỷ là trị được mà thôi. Thực sự trong trường hợp bị một cơn quỷ ám lâu dài nạn nhân dễ bị những vấn đề về tâm lý và có thể cũng cần đến sự chăm sóc y khoa thích đáng cả sau khi đã được giải thoát. Ở đây tôi chỉ bàn đến một lãnh vực đòi hỏi sự chuyên môn đặc biệt mà một nhà trừ quỷ thường lại không có. Một nhà trừ quỷ hẳn phải biết về bệnh tâm lý chỉ tới mức độ có thể nhận ra được khi nào thì cần đến một bác sĩ tâm lý; không ai đòi hỏi ông phải biết về các bệnh tâm lý y như một bác sĩ tâm lý biết. Do đó, nhà trừ quỷ phải biết về các hiện tượng siêu tâm lý, nhưng ông không thể thay thế một chuyên gia trong lãnh vực này. Lãnh vực chuyên môn của nhà trừ quỷ thuộc về siêu nhiên. Ông phải biết chính xác về những hiện tượng siêu nhiên và những cách chữa liên quan. Tiền đề này là rất cần thiết, vì ở đây chúng ta đang bàn đến những vấn đề đụng chạm đến những sự siêu nhiên, huyền bí, siêu phàm - hoặc quỷ quái.

Các đặc sủng. Chúa Thánh Thần, với sự tự do thần linh của Ngài, ban phát các đặc sủng của Ngài khi nào và cho ai Ngài thích. Những điều này không được ban cho vì vinh quang hoặc lợi ích của người lãnh nhận nhưng là để phục vụ anh em mình. Giữa những đặc sủng này là quyền năng giải thoát khỏi ma quỷ và chữa lành các bệnh tật. Những tặng ân này có thể được ban cho các cá nhân cũng như các cộng đoàn. Chúng không lệ thuộc ở sự thánh thiện cá nhân, nhưng ở sự tự do lựa chọn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa thường ban những ơn này cho những người công chính, sống khiêm nhường, năng cầu nguyện, và sống một đời sống Kitô giáo gương mẫu - điều này không có nghĩa là không có khuyết điểm! Ngày nay, xuất hiện nhiều kẻ tự nhận mình có đặc sủng và lôi cuốn đông đúc những người đau khổ tìm đến. Làm thế nào để có thể phân biệt được những người được đặc sủng thật với những người giả tạo? Sự phân biệt thuộc về Giáo Hội, Giáo Hội được giao quyền để dùng bất cứ và mọi công cụ mà Giáo Hội xét là cần thiết để phân biệt.

Tôi biết những trường hợp mà trong đó những nhà chức trách trong Giáo Hội can thiệp để canh giác tín hữu đề phòng những tay khoác lác và những tay lừa đảo. Tôi chưa hề biết bất cứ ai đã được nhìn nhận chính thức là có những đặc sủng như thế. Đây là một vấn đề khó khăn và phức tạp, nó phức tạp bởi vì các đặc sủng có thể chấm dứt bất thình lình. Vì không có người nào còn đang sống mà được cố định trong một tình trạng ân sủng thường hằng, rất có thể một người đã lãnh nhận một đặc sủng lại trở nên bất xứng. Tôi xin gợi ý bốn qui tắc để xác định sự hiện diện của đặc sủng thực sự. (1) Cá nhân hoặc cộng đồng sống Phúc Âm một cách sâu xa. (2) Cá nhân hoặc cộng đồng thực hiện những dịch vụ tuyệt đối miễn phí - không chấp nhận quà cáp, như thể nhờ những việc này mà dễ dàng trở nên giầu có. (3) Các việc thực hành được dùng phải là những phương pháp thông dụng để đạt được ân sủng đã được Giáo Hội chuẩn nhận, tránh những hành động bất thường hoặc mê tín dị đoan. Chẳng hạn, họ không được dùng những công thức "ma thuật" nhưng phải dùng cầu nguyện, dấu Thánh giá và việc đặt tay, và đừng có điều gì có thể phạm đến đức khiêm nhường. Họ phải tận dụng nước, trầm hương, và các di tích thánh và tránh bất cứ cái gì ở ngoài cách dùng thông thường của Giáo Hội. Họ nên cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu Kitô. (4) Các kết quả phải là tốt. Đây là qui luật Phúc Âm, tổng kết tất cả các qui luật khác: "Cây nào sinh trái ấy (Mt 12, 33).

Những nét đặc trưng khác là tiêu biểu cho những sự chữa lành đã đạt được qua các đặc sủng là như sau: chúng có hiệu quả cho tất cả mọi bệnh tật, cả những bệnh do ma quỷ gây nên. Những sự chữa lành này không dựa trên sức lực hay khả năng loài người nhưng trên lời cầu nguyện đầy đức tin, trên sức mạnh của Danh thánh Chúa Giêsu, trong sự cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh. Với người có đặc sủng thực sự, họ không hao tổn sức lực và cũng không cần thời gian nghỉ để "sạc lại", như trong trường hợp các thày lang, thày bói,... Vì người ấy không phải là chủ thể của các phản ứng vật lý nhưng chỉ là một hành vi khởi dẫn ân sủng. Việc chữa lành bằng đặc sủng không nhằm nêu bật những tặng ân của cá nhân nhưng nhằm tán dương Thiên Chúa và gia tăng đức tin và cầu nguyện.

Tôi muốn nhấn mạnh cách ván tắt điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khuyến cáo, nhưng đã không luôn luôn được noi theo. Chủ nghĩa duy lý và duy tự nhiên đã chiếm lĩnh lãnh vực này: những cuộc xuất hiện phi thường, những phép lạ, sự hiện diện của các thánh, những cuộc hiện ra. Đó là tất cả những biến cố xảy ra chỉ được đón nhận với sự rụt rè hơn là với lòng biết ơn; với sự kết án mà không điều tra hoặc, ít là bị xem như một chuyện rắc rối. Lời cầu nguyện của các Kitô hữu thuở ban đầu: "Lạy Chúa, xin cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giêsu" (Cv 4, 29-30), không được lặp lại trong bất cứ nhà thờ nào. Xem ra những tặng ân này ngày nay chỉ là một sự phiền toái.

Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng Chúa Thánh Thần "phân phát các ân sủng đặc biệt cho những tín hữu ở mọi cấp bậc...những đoàn sủng này từ những ơn chói lọi nhất đến những ơn nhỏ bé hơn cần phải được lãnh nhận với lòng tri ân cảm tạ. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài các ơn đặc biệt,... Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính chân thực và sự xử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tát Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo" (Lumen Gentium, số l2). Hiển nhiên rằng những lời chỉ dẫn này chẳng được biết đến rộng rãi trong Giáo Hội. Do đó, Công Đồng khẳng định rằng bất cứ ai lãnh nhận những tặng ân của Thánh Thần - dù là một người giáo dân - đều có quyền và bổn phận thi hành chúng, dưới sự hướng dẫn sáng suốt của đức giám mục. Tôi vui mừng vì đang thấy hé nở những nỗ lực nhằm giúp các giám mục trong công việc xem xét của các ngài: chẳng hạn, Phong trào Đặc sủng ở Assisi. Đây là một lãnh vực rộng mở cần phải được theo đuổi.

Các thị nhân và các nhà ngoại cảm. Tôi bàn đến hai loại một lúc, bởi vì họ theo bản chất có cùng những đặc điểm như nhau. Loại thứ nhất là nhìn thấy, loại thứ hai là cảm thấy; cả hai diễn tả cái mà họ đã cảm nghiệm được qua sự tiếp xúc với những vật hoặc những người. Tôi sẽ không bàn giải về chủ đề này, bởi nó bao quát rất nhiều lĩnh vực mà chỉ giới hạn những bình giải của tôi vào lãnh vực chuyên môn cụ thể của tôi: ảnh hưởng của những người đó trong lãnh vực các ảnh hưởng của ma quỷ trên con người, đồ vật và nhà cửa. Nhiều lần các thị nhân và các nhà ngoại cảm đã tiếp xúc với tôi; đôi khi tôi cũng trực tiếp gọi họ và xin họ hiện diện trong buổi cầu nguyện trong một số cuộc trừ quỷ, để tìm ra cái mà họ nhìn thấy hay cảm thấy. Tôi đã có thể nhận xét rằng các câu trả lời của họ đã được ban cho bởi thần khí thông biết.

Một số người, ngay khi họ nhìn thấy hoặc đến tiếp xúc với một người bị quỷ ám, lập tức họ nhận ra vấn đề. Thỉnh thoảng họ cảm thấy khó chịu chung quanh những nạn nhân này; những lúc khác họ có thể nhìn thấy ma quỷ đụng đến họ và họ có thể diễn tả nó. Chỉ cần đưa cho họ một tấm hình, một lá thư, hoặc một đồ vật thuộc về người bị nghi là bị quỷ ám cũng đủ để họ coi xem mọi thứ có bình thường hay không, hoặc có sự hiện diện của ma quỷ hay không, hoặc ngay cả coi xem người đó có nguy cơ mang những hoạt động của ma quỷ chống lại những người khác hay không. Thậm chí chỉ cần nghe tiếng nói của một người nào đó là họ có thể nhận diện được một vấn đề. Chẳng hạn, những người tin rằng họ có thể là đối tượng của những ảnh hưởng ma quỷ, họ sẽ gọi một thị nhân hoặc một nhà cảm xạ và nhận được câu trả lời đúng. Các thị nhân và các nhà ngoại cảm thường được yêu cầu đi đến các ngôi nhà được coi như bị quấy phá, vì có những sự lạ xảy ra, và họ có thể cảm nhận là có hay không có sự hiện diện của ma quỷ. Họ có thể nhận ra những đồ vật đã bị bỏ bùa và phải được đốt đi để trừ khử ảnh hưởng xấu ác. Chẳng hạn họ có thể chỉ vào một chiếc gối hoặc chiếc đệm, và khi mở chúng ra, sẽ thấy những đồ vật lạ như tôi đã từng mô tả trước đây. Tuy nhiên, họ không luôn luôn đúng; những điều họ "cảm thấy" cần phải được kiểm tra lại. Họ cũng có thể theo dõi dấu vết đời sống của một người nào đó, chỉ ra với một sự chính xác lạ lùng ở tuổi nào ảnh hưởng ma quỷ đã xảy ra, thế nào và tại sao nó xảy ra, và những triệu chứng liên quan đến nó. Thỉnh thoảng họ có thể chỉ cho thấy tác giả của ảnh hưởng xấu.

Một hôm, khi tôi dẫn vào phòng khách một người đã xin tôi trừ quỷ, tôi nhớ rằng tôi đã định gọi điện cho một "nhà ngoại cảm". Tôi đi đến chỗ điện thoại, và ông ta lập tức nói ngay: "Anh sắp trừ quỷ cho một người ở độ tuổi 50. Người ấy khi lên mười sáu đã bị một thứ bùa độc, vì căm ghét cha mình. Họ cho anh ta một ly rượu, và họ đã dấu bùa ở dưới đáy một cái giếng. Từ đó, người thanh niên này bắt đầu cảm thấy khó chịu, và bệnh của anh ta cứ tăng thêm bởi vì mọi thứ thuốc men đều vô hiệu. Sau một vài năm cha anh ta qua đời, và anh ta bắt đầu cảm thấy khá hơn. Tuy nhiên, đầu óc anh ta bị tổn hại nặng đến nỗi anh ta không thể làm việc được. Anh hãy cố gắng và hãy làm phép cho anh ta, nhưng tôi e rằng sẽ chẳng làm được gì, vì đó là một sự dữ đã ăn rễ quá lâu rồi". Mọi sự đã xảy ra đúng như ông ta đã nói trước. Một trường hợp khác, trong khi tôi đang trừ quỷ cho một người dưới sự hiện diện của một nhà ngoại cảm", tôi đã được nói cho biết những bộ phận nào trong thân thể tôi nên làm phép với dây stola hoặc xức dầu, bởi vì chúng đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vào lúc cuối cuộc trừ quỷ, nạn nhân muốn khẳng định rằng những khu vực này đã gây cho anh ta đau đớn nhiều nhất.

Tôi có thể nói tiếp nhiều thí dụ nữa. Tôi xin nói rằng những thị nhân và những nhà ngoại cảm mà tôi đã chọn để tham vấn - trong số nhiều người được tiến cử cho tôi - đã là những người rất năng cầu nguyện, giầu lòng từ tâm và bác ái, và đặc biệt rất khiêm nhường. Nếu tôi không khám phá ra họ do tình cờ hoặc do ai đó cho tôi biết tài năng của họ, thì họ cũng chẳng bao giờ nói cho tôi. Những tài năng này là gì? Là những đặc sủng chăng? Hay là những khả năng huyền bí? Tôi hướng đến chỗ tin rằng đó là một tặng ân huyền bí để con người sử dụng phục vụ người khác. Tôi không loại trừ khả năng nó có thể là một đặc sủng. Tôi không nhận thấy trong những người này bất cứ dấu hiệu mệt mỏi hay mất sức nào. Tôi đã chứng kiến các khả năng này được tăng sức mạnh lên dần dần khi sử dụng; điều này dẫn tôi đến chỗ tin rằng chúng ta đang đối diện với những tài năng huyền bí. Tôi sẽ thêm rằng thật là khó khăn để tìm thấy những thị nhân hoặc những nhà ngoại cảm đích thực. Một mặt khác, có rất nhiều người tin rằng mình có và được coi là có những tài năng này. Chúng ta cần phải rất cẩn thận.

Các người chữa bệnh. Tôi sẽ chỉ nói đến những sự chữa lành xảy ra qua sự chuyển tải một hình thức năng lượng đặc biệt, chủ yếu là qua việc đặt tay. Chúng ta đang đi hẳn vào trong lãnh vực của giáo sư Emilio Servadio, một chuyên gia người Ý về những hiện tượng huyền bí. Vì tôi không phải là một chuyên gia, nên tôi sẽ chỉ nói rằng những người chữa bệnh không có bất kể thứ ảnh hưởng gì trên những căn bệnh do ma quỷ gây ra, cũng như kiến thức nhân loại và các bác sĩ cũng không có ảnh hưởng gì.

Liệu pháp Prana. Trong ít năm gần đây, có một sự bộc phát những người tự cho mình là có những khả năng này, cũng như khả năng của những người chữa bệnh. Tôi không định thử cắt nghĩa lý thuyết về prana hoặc về bioplasma. Khoa học chính thức đang nghiên cứu về hiện tượng này nhưng chưa thừa nhận nó. Tôi thuật lại những kết luận mà cha Grua đã nghiên cứu trong cuốn sách của ngài, cuốn La preghiera di guarigione: "Nếu việc chữa bệnh xảy ra thông qua một năng lực mà người chữa bệnh truyền sang cho người bệnh, cả thông qua việc nạp năng lượng ngoại cảm hoặc qua cách truyền năng lượng khác, thì họ không dính dáng gì đến đặc sủng chữa bệnh. Thêm vào đó, có thể có nguy cơ sự dữ thâm nhập vào. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải hết sức khôn ngoan." Tôi biết một số những chuyên gia prana vị tha thực sự, những người có đức tin, họ sẵn sàng đem những khả năng của họ phục vụ tha nhân trong tinh thần bác ái đích thực. Không may, những người như thế lại rất hiếm - cả ngàn người mới có một - một nhà trừ quỷ lừng danh ở Venice, cha Pellegrino Ernetti, đã dặn tôi cần phải thận trọng đối với liệu pháp prana. Cần phải sáng suốt nhìn vào các hoa trái và các phương pháp chúng ta sẽ nhận ra cây.

Các thày phù thủy. Tôi đã nói rất nhiều về những người này. Tôi sẽ nói lại rằng các việc chữa bệnh có thể xảy ra thông qua sự can thiệp của ma quỷ, có thể đội lốt những sinh vật ngoài trái đất hoặc những linh hồn hiện về hướng dẫn. Chính Chúa Kitô đã cảnh giác chúng ta phải đề phòng "những tiên tri giả và những Kitô giả" (Mt 24,24). Một đạo quân những nhà chữa bệnh khác, hoàn toàn không dính dáng gì với quyền lực của ma quỷ, là rất đông những phù thuỷ giả, đơn giản là những tên lang băm, hay những tay thày mo. Những người này chuyên đánh lừa người ta bằng cách cho họ những lá bùa, những giải băng và những chiếc túi da thú nhỏ. Tôi đã đốt một tờ giấy vở trên đó có vẽ nhiều trường vòng cuộn lại vô nghĩa: đó là "lá bùa" trị giá 8.000 đô la đấy! Một người khác chạy đến xin tôi giúp đỡ, ông đã từng phải trả một số tiền gấp đôi cho một túi nhỏ đựng toàn những đồ tạp nhạp được coi như là để giải thoát ông khỏi nhiều thứ bệnh.

Các mụ gypsies. Phải nói ít lời về những mụ gypsy bởi vì họ có mặt ở khắp Âu châu. Thay vì phải nói lại những điều tôi đã nói về những tay bói bài và những tay gian xảo, tôi sẽ tập trung vào những khía cạnh khác của hiện tượng này qua một thí dụ. Tôi đã trừ quỷ cho một phụ nữ bị quỷ ám; bà ta đã phải chịu đau khổ với nhiều chứng bệnh một thời gian nhưng không nghĩ là do nguyên nhân ma quỷ. Một hôm, sau khi tiếp một mụ gypsy trẻ, mụ ta nói: "Thưa bà, bà bị bệnh vì họ đã bỏ bùa cho bà. Bà hãy đưa cho tôi một quả trứng sống." Người đàn bà đã đưa trứng cho mụ, và mụ ta đã đặt trái trứng trên ngực bà, đọc một công thức ngắn giống như một lời kinh bằng tiếng lạ, và rồi đập quả trứng ra, từ trong quả trứng có một con rắn nhỏ bò ra. Vài tháng sau, người đàn bà ấy đã tiếp một mụ gypsy trẻ, từ một bộ tộc khác. Mụ ta cũng đã nói hầu như cũng những lời giống như thế: "Thưa bà, bà phải chịu đau khổ bởi vì có người đã bỏ bùa vào bà. Bà phải để cho ai đó cất đi cho. Bà hãy đưa cho tôi một quả trứng sống." Lần này người đàn bà trở lại với chồng mình. Mụ gypsy đặt quả trứng trên ngực bà, đọc một công thức ngắn nghe như đọc kinh, và rồi đập quả trứng ra. Lần này, có một mớ tóc lòi ra.

Một trong các bạn của tôi, một bác sĩ ở Roma, vừa ra khỏi đền thờ Thánh Gioan Latran - nơi luôn luôn có những mụ gypsy xin tiền - khi một gypsy đến gần ông xin tiền. Ông ta lấy ví ra định cho cô ta một đô la, nhưng không có tiền lẻ, nên đành phải cho cô ta tờ 10 đô la. Mụ gypsy nói với ông ta: "Ông đã rất quảng đại với tôi, nên tôi cũng muốn đối xử tốt với ông." Mụ ta đã tiếp tục nói cho ông một số những vấn đề rắc rối thể lý - ông bác sĩ rất là rành về các vấn đề này, nhưng giống như một bác sĩ tiêu biểu, ông ta đã không để ý đến chúng. Mụ ta cũng cảnh báo ông rằng ông là mục tiêu của một cuộc lừa đảo và ông phải chấm dứt nó đi. Tất cả diễn ra đúng vậy.

Chúng ta làm sao cắt nghĩa được những biến cố xảy ra này? Thật không dễ gì. Một số gypsy dường như có những năng lực huyền bí được truyền lại qua các thế hệ. Những loại này là ngoại lệ. Nơi các gypsy yêu thuật được thực hành rộng rãi, như là một hình thức mê tín dị đoan. Họ đã làm như thế qua các thế kỷ và tiếp tục truyền những năng lực từ mẹ đến con gái - luôn luôn chỉ có nữ giới mới thực hành những yêu thuật này.

Mặt khác: luôn luôn có một cơn cám dỗ đối với những nhà đặc sủng, những nhà ngoại cảm, và những nhà trừ quỷ (chúng tôi còn bị cám dỗ hơn những người khác): tức là cơn cám dỗ tìm cách nào chữa bệnh nhanh nhất, bằng cách đi ra ngoài các phương pháp thánh thông thường để đạt được ân sủng và vô tình rơi vào cạm bẫy của ma thuật. Chẳng hạn, chúng tôi bắt đầu thấy rằng nếu dùng một đĩa nhỏ đầy nước, cho vào đó một vài giọt dầu, và đọc lên một vài cái tên, chúng tôi sẽ được một số câu trả lời, và như thế chúng tôi bắt đầu một loạt các trò ma thuật. Tôi đã chứng kiến sự sa vào các trò ma thuật về phía một số người mà may mắn thay họ đã nhận ra cái sai lầm của họ và đã có thể trở lại con đường ngay chính. Bất hạnh thay, không phải mọi người đều có thể làm điều đó. Tôi cũng biết một số linh mục - không phải nhà trừ quỷ - đã dùng một số phương pháp chữa bệnh với ít nhiều thành công, mà không nhận ra rằng mình đang chơi trò ma thuật. Ma quỷ rất ranh mãnh: nó luôn luôn sẵn sàng hứa cho chúng ta vương quốc trần gian này nếu chúng ta quì gối thờ lạy nó!

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§17 - PHẦN BỊ QUÊN LÃNG CỦA SÁCH NGHI THỨC

Nhiều năm đã trôi qua kể từ khi kết thúc Công Đồng Vaticanô II. Tất cả các phần trong sách nghi thức đã được sửa lại theo những hướng dẫn của Công Đồng. Chỉ có một phần duy nhất vẫn còn bị niêm phong với bảng hiệu "Vấn đề còn đang nghiên cứu", phần này liên quan đến việc trừ quỷ. Thực sự chúng ta có học thuyết của Kinh Thánh, thần học, và quyền giáo huấn của Giáo Hội. Ở một chỗ khác, tôi đã bàn kỹ về một số bản văn của Công Đồng Vaticanô II. Tôi sẽ không nhắc lại ba bài phát biểu của Đức Phaolô VI và mười tám bài của Đức Gioan Phaolô II về chủ đề này. Tôi sẽ tự giới hạn vào một câu trích từ bài của Đức Phaolô VI ban hành ngày 15.11.1972: "Phàm ai chối không nhận có ma quỷ thật thì cũng chối Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội. Cũng là như thế những ai cho rằng thực tại này phát nguồn tự nó chứ không phát xuất từ Thiên Chúa như mọi thụ tạo khác, và bất cứ ai cố gắng cắt nghĩa nó như là thực tại giả hiệu, như là hiện thân có tính tưởng tượng và khái niệm của tất cả mọi nguyên nhân chưa biết của các bệnh tật nơi chúng ta." Sau đó Ngài còn nói thêm: "Chương nói về ma quỷ, và về những ảnh hưởng mà chúng có thể gây nên trên từng cá nhân, các cộng đoàn, trên toàn xã hội hoặc trên các biến cố, là một chương rất quan trọng trong học thuyết của Giáo Hội. Chúng ta cần phải duyệt lại và học tập về nó; bất hạnh thay, ngày nay thực tế nó bị lãng quên."

Ngày nay, đối với nhiều linh mục, những lời của Kinh Thánh, truyền thống, và Huấn quyền về chủ đề này bị rơi vào quên lãng. Đức giám mục Balducci viết rất đúng rằng: "Tốt biết bao nếu quần chúng biết được loại khủng hoảng nào mà ngày nay Giáo Hội đang phải đương đầu, ít là về mặt học thuyết?" (Il diavolo [Piemme], p. 163). Tôi đã nói rằng nhiều trong số các bản viết của tôi là tranh luận với các nhà thần học, các giám mục, và các nhà trừ quỷ. Việc tranh luận không thành vấn đề, nhưng là việc đem sự thật ra ánh sáng. Cơn khủng hoảng này không chỉ về học thuyết; mà còn về cả mục vụ nữa. Tức là, nó liên quan đến các giám mục không chịu bổ nhiệm các nhà trừ quỷ và các linh mục lại chẳng tin vào chức vụ này chút nào nữa. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm, nhưng ngày nay ma quỷ hành hạ người ta quá chừng, và khi các nạn nhân đi tìm một nhà trừ quỷ, họ vấp phải cái bảng hiệu thông thường: "Vấn đề còn đang nghiên cứu".

Tôi sẽ bắt đầu với các nhà thần học. Tôi xin nêu ra nhà thần học Luigi Sartori, một vị danh tiếng và đã được trích dẫn. Ông viết: "Có lẽ một số trong các cuộc chữa bệnh của Chúa Giêsu liên quan đến những người bịnh ảnh hưởng bởi những xáo trộn về thần kinh hơn là bởi quỷ ám thực sự." Đây là một lời ám chỉ thuộc loại tồi tệ nhất, và rất sai lầm. Phúc Âm luôn luôn phân biệt giữa việc chữa lành bệnh với việc giải thoát khỏi ma quỷ, cũng như rõ rằng có sự khác nhau giữa quyền năng mà Chúa Giêsu ban cho để chữa bệnh và quyền năng Chúa ban để trừ quỷ. Các thánh ký không thể nêu tên chuyên môn của một số bệnh, nhưng các ngài có đầy đủ khả năng phân biệt khi đụng phải một căn bệnh và khi đụng phải trường hợp quỷ ám. Chính Luigi Sartori chứ không phải các thánh ký là người không thể phân biệt được giữa hai trường hợp đó. Chúng tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng cơ bản rằng trong các hoạt động của Đức Kitô có việc trừ quỷ. Khi bảy mươi hai môn đệ muốn tổng kết lại các kết quả của sứ mạng của họ sau khi họ được Chúa Giêsu sai đi rao giảng cứ hai người một, thì họ hân hoan kể ra một điều, và chỉ một điều thôi: "Lạy Chúa, nhân danh Chúa cả đến ma quỷ cũng phải tùng phục chúng con!" và Chúa Giêsu trả lời: "Thày đã thấy Satan như tia chớp từ trời sa xuống" (Lc 10, l-18). Chúng ta đừng ngạc nhiên rằng Luigi Sartori kết luận bài viết của mình với những lời khẳng định: "Chúa Giêsu, nghệ nhân kỳ diệu đã phô diễn trên hết sức mạnh của tình yêu; Ngài đã xây dựng những mối tương quan cảm thông lẫn nhau; đó là lý do tại sao Ngài đã có thể làm những phép lạ, chứ không phải là vì Ngài sở hữu những quyền năng bí mật thần thiêng như một phù thuỷ" (Famiglia Cristiana, số 19, 10.5.1989). Không, hỡi nhà thần học thân mến, Chúa Giêsu không đi tìm sự cảm thông, và cũng không sở hữu những quyền năng bí mật của một phù thủy. Ngài sở hữu quyền toàn năng của Thiên Chúa, và với những hành động của Ngài, Ngài đã chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa. "Sự phân biệt tinh tế nhưng quan trọng này" không còn thấy nơi những thần học gia hiện đại nữa.

Một nhà thần học khác, Luigi Lorenzetti. Một cách hào hiệp ông thừa nhận rằng "người tín hữu không thể nào tuyệt đối phủ nhận rằng trong một số trường hợp xảy ra có một sự liên quan nào đó với ma quỷ"; nhưng ông ta lại thêm ngay rằng: "Thật là khó, đúng hơn là không thể xác định chắc chắn khi nào một sự hiện diện như thế xảy ra trong những trường hợp cụ thể". Nếu điều này là không thể, thì những cuộc giải thoát được Chúa Giêsu thực hiện cũng như những cuộc giải thoát do các tông đồ làm được, cũng không thể tin được. Và tiếp theo là quyền năng trừ quỷ mà Chúa Giêsu đã ban cho Giáo Hội của Ngài cũng vô ích và các qui tắc Giáo Hội hướng dẫn trừ quỷ cũng vô dụng, và các nhà trừ quỷ cũng thế. Không, hỡi nhà thần học thân mến, việc xác định những trường hợp cụ thể có sự hiện diện của ma quỷ là điều không thể đối với bạn và đối với các thần học gia giống như bạn, bởi vì các bạn tuyệt đối chẳng có kinh nghiệm gì trong lãnh vực này. Do đó, các bạn rất dễ dàng đi đến kết luận: "Nói chung, chúng ta không sai lầm nếu chúng ta lấy lối cắt nghĩa theo khoa học tự nhiên thay cho lối cắt nghĩa theo ma thuật quỷ quái" (Famiglia Cristiana, số 39, 5.10.1988). Điều này thì cũng giống như nói rằng tôi tin có ma quỷ trên lý thuyết, bởi vì tôi không muốn bị tố cáo là lạc giáo, nhưng trên bình diện thực tế tôi không tin, vì trên bình diện thực tế, tôi chỉ tin vào khoa học tự nhiên.

Nếu đây là lối suy nghĩ của các thần học gia uy tín, thì các linh mục bình thường có thể tin cái gì? Hàng ngày tôi có thể sờ thấy được những hậu quả của sự không tin này. Đôi khi những thần học gia này đã xếp các cuộc trừ quỷ vào cùng một loại với những sự lường gạt tinh vi do những người muốn làm tiền dễ dàng và nhanh chóng thực hiện trên đám quần chúng nhẹ dạ. Tôi xin kể thí dụ về một vị mục tử ở Palermo, Sicily, cha Salvatore Caione, người đã được trích dẫn trong Famiglia Cristiana (số 6, 8.2.1989). Với đầu đề "Bùa ngải không hiện hữu", ngài đã phê phán mọi thứ là bịp bợm và đặt mọi người trên cùng một bình diện: những người bỏ bùa, những tay bói bài và các nhà trừ quỷ - bất kể những nhà trừ quỷ đã được các giám mục chuẩn nhận theo đúng Giáo luật. Thực ra chắc chắn cũng có nhiều người để cho mình bị lừa; tuy nhiên, (không phải là nhờ những sai lầm ấy mà chúng tôi truyền đạt điều chân thật) việc chúng tôi giảng dạy chân lý thì không thể lầm lạc được. Đó là những điều tinh tế vuột khỏi tầm nhìn của cha Salvatore và của những người phổ biến ý kiến của cha mà không để ý đến những sai lầm lớn lao bên trong.

Khi chúng ta lầm lẫn giữa cái sai và cái đúng, kết quả mang lại thật tai hại. Các nhà trừ quỷ thì ít ỏi và, do đó, người ta chạy đến hàng ngũ đông đảo các thày phù thủy. Người tín hữu chẳng được ai dạy bảo. Tôi đã trừ quỷ cho một nữ tu đang ở trong tình trạng đáng thương như là hậu quả quỷ ám mà suốt mười năm chị ta cứ yếu đi dần dần. Tôi đã gọi bà bề trên cả và bảo bà rằng bà không nên chờ đợi cho tới khi bệnh nhân gần chết mới đi gọi bác sĩ; bà nên cho gọi bác sĩ ngay lúc bắt đầu cơn bệnh. Bà bề trên trả lời: "Cha nói đúng, nhưng những điều này đã chẳng có linh mục nào dạy chúng tôi." Bà cũng kể cho tôi bao nhiêu linh mục - không kể các bác sĩ - đã gặp chị nữ tu đó mà không hề có một người nào đã gợi ý rằng nguyên nhân đích thực của một căn bệnh mà các cách điều trị thông thường đều bó tay, thì có thể có nguồn gốc do ma quỷ.

Thực ra trong các bài viết của tôi cũng đã phê bình các nhà trừ quỷ. Tôi đã nói rằng "chúng ta bị thất truyền" rồi, nghĩa là nơi các giáo phận, không còn thấy truyền thống đào tạo những nhà trừ quỷ cho thế hệ kế thừa nữa. Do đó, thường xảy ra là một số nhà trừ quỷ không biết đến những diễn tiến sơ đẳng nhất. Tôi đã trách cứ Đức Ông Giuseppe Rutta, kinh sĩ nhà thờ chính toà và là nhà điều phối các nhà trừ quỷ ở Turin, Italy. Franca Zambonini đã phỏng vấn ngài nhân danh báo Famiglia Cristiana (30.3.1988), như đã được gợi ý bởi Đức Hồng Y Ballestrero. Rutta đã khẳng định rằng "sự quỷ ám bị giới hạn trong thời gian và chỉ kéo dài chừng một vài giờ hay một vài ngày." Câu trả lời ngây thơ này bộc lộ tất cả sự thiếu kinh nghiệm sơ đẳng nhất. Thực ra, ngài tiếp tục bằng cách nói rằng hết những ai đã đến với ngài "chẳng bao giờ biểu lộ bất cứ dấu hiệu nào đòi phải trừ quỷ". Chính tôi, trong chín năm làm việc cật lực (nhiều đến nỗi tôi đã phải bắt buộc cắt bớt gánh nặng của tôi), tôi đã trừ quỷ cho trên ba mươi ngàn người và tôi đã ghi tên mỗi người đã bị quỷ ám: có khoảng chín mươi ba người đã bị ám xấp xỉ mười năm. Có những người đã trải qua những cuộc trừ quỷ cách khoảng đều đặn trên những thời kỳ mười, mười lăm năm hay hơn nữa, mà họ vẫn không được giải thoát.

Tôi cũng đã mạnh mẽ phê bình Đức Ông Giuseppe Vignini, linh mục xá giải nhà thờ chính toà Florence, vì bốn bài báo mà ngài đã đăng trên tờ Toscana oggi (tháng 10 và 11.1988). Khi một nhà trừ quỷ viết rằng ma thuật, lễ misa đen, việc bỏ bùa... chẳng là gì khác hơn là "những việc bày tạo vô thưởng vô phạt, phát sinh từ trí tưởng tượng gợi lên"; khi ngài quả quyết rằng việc trừ quỷ không phải là bí tích nhưng chỉ đơn giản là một sự cầu khẩn, vì không biết rằng đó là một á bí tích, khi ngài kết luận những tư tưởng ẩu tả của ngài với lời phát biểu rằng: thực ra, các việc trừ quỷ không nên thực hiện bao giờ. Vậy thì tôi phải nói cho ngài với hết lòng cung kính rằng "Con thân mến, con đi học lại nghề của con đi hoặc là con nên đổi nghề đi."

Tôi biết một số nhà trừ quỷ thậm chí chẳng có lấy một cuốn Nghi thức; họ không hề biết những qui tắc mà họ phải theo cũng như những kinh nguyện phải đọc. Họ chỉ biết bản dịch - (không hoàn chỉnh) - bằng tiếng Ý bản kinh trừ quỷ của Đức Lêô XIII và chỉ đọc mỗi kinh ấy. Báo chí thế giới đã công khai đăng tải trường hợp cô Annelise Michel, ở thành phố Klingenberg, Germany. Cô là một cô gái hai mươi bốn tuổi, đã chết vào mùa hè năm 1986 sau một loạt các cuộc trừ quỷ. Vấn đề thành chuyện bởi vì hai nhà trừ quỷ đã bị truy tố và phải ra hầu toà. Dữ liệu đã được đăng tải trong các tạp chí và các sách vở khác (như cuốn Diavoli demoni possession của Kasper và Lehmann [Queriniana, 1983]) nói bóng gió rằng cả hai linh mục liên quan đã quá vội vã nghi ngờ có sự hiện diện quỷ ám. Dường như hai nhà trừ quỷ này - mặc dù luôn thực hiện dưới sự đồng ý và sự hiện diện của cha mẹ cô gái - đã để mình bị điều khiển bởi những điều mà chính cô gái nói là nên làm, để mang lại lợi ích cho cuộc giải thoát.

Tuy nhiên, một cuốn sách về sau đã nghiên cứu các sự kiện của trường hợp này sâu xa hơn: cuốn Annelise Michel, của tác giả Kasper Bullinger (Altotting: Ruhland, 1983). Cuốn sách này nghiên cứu trường hợp và đã kết thúc bằng việc giải oan hoàn toàn cho hai nhà trừ quỷ. Nó chứng minh rằng cả vị giám mục, người đã ban phép trừ quỷ và hai linh mục đã hành động một cách hết sức đúng đắn. Cuốn sách cũng chỉ ra nguyên nhân cái chết của cô gái, hoàn toàn không do sự cử hành và lãnh nhận á bí tích. Dù sao biến cố này cũng góp phần khiến cho các linh mục trở nên miễn cưỡng chấp nhận nhiệm vụ làm nhà trừ quỷ.

Cuối cùng, tôi nói đến các giám mục. Thực sự tôi rất buồn các ngài, bởi vì tôi yêu mến các ngài và muốn phần rỗi cho các ngài. Bản Giáo luật không nói đến lỗi "quên sót trong chức vụ"; nhưng đoạn Phúc Âm về ngày chung thẩm, của thánh Matthêu đoạn 25, cho chúng ta một chỉ định rõ ràng rằng tội quên sót có thể là một lỗi phạm không thể tha thứ.

Trong trí tôi vẫn còn in đậm câu phát biểu của một Đức Tổng Giám mục danh tiếng vào ngày 25.11.1988, trong lúc ngài đang là khách được mời trong một chương trình truyền hình rất nổi tiếng, do ông Zavoli làm chủ toạ. Đức Tổng Giám mục này đã xuất hiện để huyênh hoang rằng ngài chưa bao giờ làm việc trừ quỷ và cũng chưa bao giờ bổ nhiệm ai làm nhà trừ quỷ. May mắn thay, cha đáng kính Formigoni, là thành viên của phong trào Comunione e Liberazione, cũng có mặt trên chương trình, và ngài đã trình bày quan điểm Kitô giáo. Sau đó tôi đã ghi lại toàn thể các loạt bài bình luận của các giám mục, những vị - dù không có ý vơ đũa cả nắm - chẳng làm vẻ vang cho hàng ngũ giám mục Ý. Những câu như thế đã được thuật lại cho tôi từ khắp nước Ý, sau đó tôi đã chuyển chúng đến các vị giám mục của chúng trước khi tôi định với các ngài một cuộc hẹn. Tôi sẽ kể ra những lời bình thông thường nhất: "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ, đó là vấn đề nguyên tắc." "Tôi chỉ tin vào khoa tâm lý học." "Bạn vẫn còn tin vào những chuyện như thế sao? "Tôi chẳng tìm được bất cứ một linh mục nào sẵn lòng chấp nhận bổn phận này. Ông hãy đi nơi khác mà tìm." "Tôi không bổ nhiệm các nhà trừ quỷ và cũng không làm việc trừ quỷ bởi vì tôi sợ. Nếu ma quỷ trở thành kẻ thù của tôi, tôi sẽ làm gì đây?" "Tôi muốn biết kẻ nào đã đặt điều ngu ngốc ấy vào đầu óc bạn." Tôi có thể kể ra nhiều nữa. Mỗi một câu trả lời như trên đã gây ra bao đau khổ cho người nhận nó, và tôi tự hỏi liệu nó có thể hiện cùng một nỗi đau nơi người nói ra nó không. Phần lớn những cá nhân này đến gặp vị giám mục sau khi đã được cha Candido trừ quỷ cho và cha Candido đã cảnh báo rằng họ cần có thêm những cuộc trừ quỷ. Tức là, các nạn nhân đã tiếp cận với các giám mục của họ, được trang bị với sự chẩn đoán của một nhà trừ quỷ tài ba và rất nổi tiếng.

Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Tôi trở thành nhà trừ quỷ là nhờ vào sự nhạy bén và sáng kiến của đức hồng y Poletti. Tôi tin rằng mỗi nhà trừ quỷ sẽ chứng tỏ nhân danh vị giám mục của mình với cùng một lòng biết ơn như thế. Tuy nhiên, sự khan hiếm các nhà trừ quỷ rõ ràng chứng tỏ một sự thiếu quan tâm về phía các giám mục nói chung.

Nếu tôi đề cập đến các quốc gia Âu châu khác, bức tranh còn tệ hơn ở Ý nữa. Tôi đã trừ quỷ cho nhiều người từ Đức, Áo, Pháp, Thụy Sỹ, Anh và Tây Ban Nha. Tất cả những người này đã đến vì nghe danh Cha Candido và cuối cùng đã được mãn nguyện với học trò của ngài (là chính tôi). Tất cả những người này đã làm chứng rằng họ không thể tìm được một nhà trừ quỷ trong nước họ. Một người Thuỵ sĩ đã quả quyết với tôi rằng ông đã gọi cho mọi giám mục trong nước này và đã chẳng nhận được gì khác ngoài những câu trả lời tiêu cực. Tôi không có ý nói rằng không có những nhà trừ quỷ trong các quốc gia này, nhưng rất khó mà tìm thấy họ. Phải sang mãi tận Roma chỉ để được trừ quỷ thì chẳng vui tí nào.

Tôi xin lập lại lời phát biểu của tôi là các tình trạng ở ngoại quốc thì tồi hơn ở Ý. Tôi sẽ cho một thí dụ tiêu biểu. Các người đồng tu với tôi ở Hoa kỳ (Hội Thánh Phaolô) đã muốn dịch sang Anh ngữ cuốn II diavolo của Balduci. Cuối cùng họ đã xin được Imprimatur (phép in) sau khi họ đã đồng ý loại bỏ hết những bài về chuyện quỷ ám, theo yêu cầu đặc biệt của kiểm duyệt viên giáo phận. Đây là một sai lầm thông dụng: chúng ta không chối sự hiện diện của ma quỷ trên lý thuyết, bởi vì chúng ta không muốn bị coi là lạc giáo, nhưng chúng ta sẽ quyết liệt chối bỏ điều đó khi chúng ta đối diện với những thí dụ cụ thể.

Mặt khác, một số giáo phái Tin lành không theo lối xử lý này. Ngay cả ở Roma cũng có một số giáo phái xem xét vấn đề một cách hết sức nghiêm chỉnh. Họ điều tra một biến cố xảy ra, và sau tiến trình phân biệt, họ thấy rõ ràng hoạt động của ma quỷ, họ trừ quỷ một cách hiệu nghiệm, nhiều lần tôi đã có thể đích thân chứng kiến. Điều hiển nhiên là không chỉ có người Công Giáo nhưng mọi người tin Chúa Kitô đều có thể nhân danh Ngài mà trừ quỷ. Chúng ta không được ghen với bất cứ ai, nhưng nên tìm sự hướng dẫn trong Phúc Âm. Khi Thánh Gioan nói với Chúa Giêsu: "Chúng con đã thấy một người trừ quỷ nhân danh Thày, và chúng con đã cấm họ vì họ không theo chúng ta", Chúa Giêsu đã khiển trách các tông đồ (Mc 9,38-40).

Đây là điều mà các thành viên của phong trào canh tân đặc sủng khám phá ra khi họ khởi sự con đường "Cầu nguyện giải thoát". Những lời cầu nguyện này phải được hướng dẫn bởi những qui luật chính xác, nhưng chúng thật hết sức hiệu nghiệm: Đức Hồng Y Suenens đã viết một cuốn sách đặc biệt để điều chỉnh những cách cầu nguyện như thế: Renewal and the Power of Darkness (nhà xuất bản Pauline, 1982), với lời nói đầu của Đức Hồng y Ratzinger. Ngài viết: "Ngay từ ban đầu, nhiều người Công Giáo liên kết với phong trào Canh tân đã khám phá việc thực hành giải thoát nơi những người Kitô hữu thuộc các truyền thống khác, chủ yếu thuộc về các giáo hội Giải phóng hoặc Ngũ Tuần. Những cuốn sách mà họ đọc, và vẫn còn đọc, phần lớn phát xuất từ những giáo phái này. Trong văn chương của họ có một lượng thông tin rất phong phú về ma quỷ và các người cộng sự của chúng, về ma thuật và phương pháp của nó... Trong Giáo Hội Công Giáo, lãnh vực này hầu như bị bỏ hoang. Những chỉ dẫn của chúng tôi để đáp ứng việc mục vụ đặc biệt không còn thích hợp trong thời đại chúng ta nữa" (pp.79-80).

Đây là một lời phàn nàn mà tôi sẽ nói đến trong chương kế tiếp; ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng việc học hỏi từ những người theo sát những lời khuyên Phúc Âm là rất chính đáng. Trong khía cạnh này, cũng như trong sự nghiên cứu và phổ biến Kinh Thánh, bên Công Giáo đã chậm chạp hơn bên các giáo phái Tin lành. Tôi không bao giờ chán lặp lại điều này: chủ nghĩa duy lý và duy vật đã làm hư một phân bộ các nhà thần học, và ảnh hưởng của họ trên các giám mục và các linh mục đã khá sâu đậm. Chính dân Thiên Chúa phải trả lẽ cho những sai lầm này. Tôi biết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã làm ít nhất hai cuộc trừ quỷ. Tôi sẽ sung sướng nếu có ai đó cung cấp cho tôi những thông tin thêm nữa.

Tôi công khai thừa nhận rằng một trong những mục đích của cuốn sách này là góp phần tái lập công tác mục vụ trừ quỷ trong Giáo Hội Công Giáo. Đây là một lệnh truyền chính xác của Chúa chúng ta, và sự kiện nó không được theo đuổi là một thiếu sót không thể tha thứ được.

o0o

PHỤ CHƯƠNG

Tư tưởng của Thánh Irênê

Tôi thuật lại tư tưởng của một trong những nhà thần học cổ thời hơn, thánh Irênê, kể cho một số nhà thần học tân thời có thể học hỏi từ đó. Tôi trích dịch từ nguyệt san Il segno soprannaturale, tháng 9.1989, được hiệu đính bởi một giáo sư vĩ đại dưới bút hiệu Alpe.

Thánh Irênê sinh khoảng năm 140 sau công nguyên tại Tiểu Á. Ngài là giám mục thành Lyon và đã thành lập Giáo Hội Gallic. Ngài qua đời khoảng năm 202, có thể tử vì đạo. Tác phẩm căn bản của ngài là Adversus haereses (chống lại lạc giáo), trong đó ngài hoàn toàn chống lại những luận đề của phái ngộ đạo. Phái ngộ đạo chủ trương rằng thế giới được sáng tạo bởi một ác thần. Irênê biện bác rằng Đấng sáng tạo đích thực là Ngôi Lời - tức là Lời của Thiên Chúa tốt lành. Các thiên thần là một phần của vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo thành. Ma quỷ, cũng giống như các thiên thần khác, cũng là sự thiện được tạo thành; tuy nhiên, một cách cố hữu và đời đời hắn đã là một thụ tạo và như thế là thấp kém hơn và phụ thuộc vào Thiên Chúa. Ma quỷ đã phản bội và do đó đã bị loại ra khỏi thiên đàng. Đó là lý do tại sao Satan là tên bội giáo tiêu biểu, và cũng là tên lừa đảo của vũ trụ, hắn "muốn lừa dối trí khôn chúng ta, làm tâm hồn chúng ta ra tối tăm, và cố gắng thuyết phục chúng ta tôn thờ hắn hơn Thiên Chúa". Các quyền lực của hắn có giới hạn bởi vì hắn chỉ là kẻ cướp quyền bính mà về cơ bản và hợp pháp chỉ thuộc về Thiên Chúa, và "hắn không thể bắt buộc chúng ta phạm tội."

Thánh Irênê tiếp tục: Satan đã đánh mất ân sủng thiên thần bởi vì hắn ghen tức với Thiên Chúa, "muốn tự tôn thờ chính mình". Hắn cũng ghen tức với loài người, bởi vì loài người là hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Sự ghen tức của hắn chủ yếu tập trung chống lại chúng ta. Đây là lẽ tại sao hắn đã vào vườn Eden với chủ tâm đồi bại muốn phá hoại tổ tông chúng ta. Irênê cũng là thần học gia Kitô giáo đầu tiên phân tích kỹ lưỡng - cuối cùng là phát triển lên - một lý thuyết về tội nguyên tổ. Thiên Chúa đã tạo dựng Adam và Evà và đặt họ trong vườn địa đàng để họ sống hạnh phúc, trong tương quan mật thiết với Ngài. Satan, khi biết điểm yếu của họ, đã vào vườn địa đàng và cám dỗ họ dưới hình dạng con rắn.

Sự độc ác của Satan có thể đã chẳng có tác dụng gì nếu như Thiên Chúa đã không ban cho loài người cái tự do chọn lựa giữa sự thiện và sự ác. Satan "đã không bắt buộc được" người nam đầu tiên và người nữ đầu tiên phạm tội; "họ đã tự do chọn lựa điều đó, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng họ một cách đặc biệt với tặng ân vĩ đại nhất là sự tự do chọn lựa. Satan chỉ là một tên cám dỗ, nhưng cũng là một tên cám dỗ thực sự và ngoan cố, bởi vì hắn ghen tức với tình trạng nguyên thuỷ của tổ tông chúng ta."

Qua sự chọn lựa của Adam và Evà, tất cả nhân loại đã tham phần vào tội lỗi của hai ông bà, và từ lúc ấy chúng ta đã tự trở thành nô lệ cho ma quỷ. Tệ hơn nữa, chúng ta bất lực trong việc tự giải thoát khỏi nó qua sự chọn lựa của chính chúng ta. Khi đã lụy thuộc Satan, chúng ta đã làm méo mó hình ảnh và sự nên giống Thiên Chúa mà chúng ta đã có và tự nên án tử cho chính mình. Hạnh phúc của vườn địa đàng đã bị tan nát. Vì chúng ta đã quay lưng lại với Thiên Chúa do ý muốn tự do của riêng chúng ta, nên chúng ta đã tự đạt mình vào tay Satan. Cũng vì thế mà Satan đã cầm buộc chúng ta dưới quyền lực của nó cho tới khi chúng ta được cứu chuộc. "Nói cho đúng ra, trên phương diện đức công bình, Thiên Chúa có thể đã để chúng ta trong tay Satan vĩnh viễn. Tuy nhiên, do lòng thương xót, Ngài đã sai con của Ngài đến cứu chuộc chúng ta." Hành vi cứu độ của Đức Kitô bắt đầu với việc Satan cám dỗ Adam thứ hai (Chúa Giêsu), như một "sự thâu tóm lại" cơn cám dỗ của Adam thứ nhất. Lần này Satan thất bại và dứt khoát bị Đức Kitô đánh bại. Truyền thống Kitô giáo cho chúng ta ba lối giải thích chính về hành vi cứu độ qua cuộc tử nạn của Đức Kitô.

1. Lối giải thích thứ nhất: bản tính nhân loại đã được thánh hoá, được nâng cao, được biến đổi, và được cứu chuộc bởi việc Đức Kitô hóa thân thành con người.

2. Lối giải thích thứ hai: Đức Kitô đã nên hy lễ dâng lên Thiên Chúa để giao hoà giữa con người và Thiên Chúa.

3. Lối giải thích thứ ba: Lý thuyết cứu chuộc. Thánh Irênê là người đầu tiên bênh vực lý thuyết này, dựa trên giả thuyết sau đây: "Vì Satan cầm buộc dòng dõi nhân loại cách hợp pháp, nên Thiên Chúa phải chuộc lại sự tự do cho chúng ta với giá là chính Ngài. Chỉ Ngài có thể ra giá. Chỉ Thiên Chúa mới có thể tự do chinh phục chính mình; không ai khác có thể tự do chọn lựa, bởi vì tội nguyên tổ của chúng ta đã tước hết quyền tự do của chúng ta. Thiên Chúa Cha đã nộp con mình là Chúa Giêsu Kitô, để giải phóng chúng ta, những tù nhân của ma quỷ. Những đau khổ của Đức Kitô đã làm tê liệt ma quỷ, giải thoát chúng ta khỏi cái chết và án phạt."

Lý thuyết hy sinh, là một lý thuyết chính yếu khác vào thời thánh Irênê. Chủ trương rằng Đức Kitô, đồng thời vừa là Thiên Chúa vừa là con người, đã mang trên mình Ngài tất cả tội lỗi của nhân loại và của ý chí tự do riêng Ngài, Ngài đã tự nộp mình để chịu chết, do đó, đã trả cho Thiên Chúa một cái giá thích đáng. Lý thuyết cứu chuộc, mặc dù đôi khi nó được diễn tả một cách sơ sài, đã phản ánh sự nhấn mạnh rằng các giáo phụ đã dựa trên cuộc chiến vũ trụ giữa Đức Kitô và Satan. Lý thuyết này nói chung phù hợp hơn với những giả thuyết nhị nguyên ôn hoà của Kitô giáo thời sơ khai. Theo thánh Irênê, Đức Kitô là Adam thứ hai, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi xiềng xích tử thần đã ràng buộc chúng ta như hậu quả của sự yếu đuối của Adam thứ nhất. Khái niệm "thâu tóm" (Đức Kitô Adam thứ hai tránh được tổn thất do Adam thứ nhất gây ra) đã nắm ở tâm điểm khoa Kitô học của thánh Irênê: "Satan, bị Đức Kitô đánh bại, tiếp tục cản trở sự cứu độ của chúng ta bằng tất cả năng lực của nó. Nó xúi dục kẻ ngoại, kẻ thờ ngẫu tượng, phù thuỷ, những kẻ ác ôn và đặc biệt kẻ lạc giáo và bội giáo. Những kẻ lạc giáo và ly giáo không đi theo Giáo Hội đích thực là những phần tử của đạo binh Satan. Họ là nhân viên của hắn trong cuộc chiến vũ trụ chống lại Đức Kitô.

Thánh Irênê chủ trương rằng tường thành bảo vệ các Kitô hữu chống lại ma quỷ là Đức Kitô. Ma quỷ chạy trốn khi các Kitô hữu đọc kinh cầu nguyện và kêu danh thánh Đức Kitô. Tuy nhiên, trận chiến chưa kết thúc, bởi vì ma quỷ sẽ tiếp tục thử thách tất cả mọi người đã được rửa tội, với phép của Đấng sáng tạo. Phép này được ban "để công phạt họ vì tội lỗi của họ, đúng hơn để thanh tẩy họ, và để dạy họ đức bác ái huynh đệ" biết giúp đỡ lẫn nhau trong nhu cầu thiêng liêng với lợi ích hỗ tương và bền bỉ; nhưng trên hết là giữ cho họ "luôn luôn tỉnh thức và vững mạnh trong đức tin."

o0o

Một tài liệu của Vatican về học thuyết ma quỷ.

Các bạn đừng nghĩ rằng chỉ có tôi mới là người ghi nhận những sai lầm to lớn của một số nhà thần học. Dường như nhiều người trong số những nhà thần học này đã nhìn nhận Rudolf Bulmann như một vị tân giáo phụ. Bultmann, trong số những người khác, đã viết: "Chúng ta không thể dùng ánh sáng điện hoặc Radio, hoặc chạy lại với y học hiện đại trong vấn đề bệnh tật, và đồng thời lại tin vào một thế giới tinh thần và vào những phép lạ mà Tân Ước trình bày cho chúng ta." (Nuovo Testamento e Mitologia [Queriniana 1969] p.100). Việc cho rằng những tiến bộ kỹ thuật là bằng chứng hiển nhiên cho thấy lời Thiên Chúa đã lỗi thời, chỉ ra một sự thiếu khả năng suy nghĩ. Nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh và thần học tin rằng họ "không hợp thời" nếu họ không đi theo những chỉ dẫn này. Trong cuốn sách nói trên, Lehmann kể ra một thống kê rất thú vị về các thần học gia Công Giáo: hai phần ba trong số họ chấp nhận giáo lý truyền thống về ma quỷ - trên lý thuyết - nhưng họ bài bác những giáo huấn này trong thực hành, trên bình diện mục vụ. Tức là, họ không muốn chính thức đối lập với Giáo Hội, nhưng thực tế họ không chấp nhận giáo huấn của Giáo Hội (p.115). Một thống kê khác cũng hay: các thần học gia Công Giáo đã tỏ ra một sự hiểu biết rất hời hợt về quỷ ám và việc trừ quỷ (p. 27). Đây đã là chủ trương xuyên suốt của tôi.

Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin biết rất rõ về tình trạng này và đã ủy thác cho một chuyên gia nghiên cứu vấn đề. Các kết quả đã được công bố trên ấn bản tiếng Ý của tờ Osservatore Romano 26.6.1985, với tựa đề "Fede Cristiana e demonologia" (Đức tin và khoa ma quỷ học). Rồi bài báo này về sau đã trở nên một phần trong các tài liệu chính thức của Tòa Thánh (Enchiridion Vaticanum, tập 5 số 38). Tôi sẽ trích một số phần của nó. Mục đích chính là để giáo dục các tín hữu, và hơn nữa các nhà thần học lầm lạc hay lẩn tránh bàn đến sự hiện hữu của Satan trong các bài nghiên cứu giảng dạy của họ, bất chấp "lý do con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy các công việc của ma quỷ" (1Ga 3,8). Bằng việc bỏ qua sự hiện hữu của Satan, chúng ta làm lu mờ ơn cứu chuộc; kẻ nào không tin có ma quỷ, cũng không tin vào Phúc Âm.

Qua các thế kỷ, Giáo Hội đã luôn luôn trừng trị các hình thức mê tín dị đoan khác nhau, sự bận tâm thái quá với Satan và ma quỷ, những hình thức thờ cúng khác nhau, và sự dính bén đến độ ám ảnh vào các thần linh này. Do đó, sẽ không đúng khi cho rằng Kitô giáo quên mất quyền thống trị phổ quát của Đức Kitô, đã biến Satan thành luận chứng qui chiếu cho việc rao giảng của mình, biến Tin Mừng Chúa Phục sinh thành sứ điệp sợ hãi. Tuy nhiên, trong thực tế, thật là một sai lầm chết người vì hành xử cứ như thể chúng ta tin rằng lịch sử đã giải quyết xong xuôi, sự cứu chuộc đã đạt đến mục tiêu viên mãn của nó, và không còn cần tham gia vào cuộc chiến đã được nói đến trong Tân Ước bởi các nhà rao giảng đường thiêng liêng.

Tuy nhiên, thường có hơn, sự hiện hữu của Satan đã bị công khai phủ nhận bởi những người hồ nghi. Có một số nhà phê bình, vì tin rằng họ có thể đồng hoá vị trí của họ với vị trí của Đức Kitô, đã khẳng định rằng Ngài không bao giờ đã nói những lời bảo đảm sự hiện hữu của thế giới ma quỷ. Họ giải thích rằng bất cứ lời khẳng định nào về sự hiện hữu của Satan cũng chỉ phản ánh những ý tưởng của các bản văn của Giuđa, hoặc chỉ là một truyền thống Tân Ước chứ không phải lời khẳng định của Đức Kitô. Do đó, vì truyền thống này không phải là thành phần của sứ điệp trung tâm Phúc Âm, nên không buộc tin, và chúng ta được tự do bỏ đi.

Những nhà thần học khác, khách quan hơn và có căn bản hơn, chấp nhận những lời trong Kinh Thánh về ma quỷ y như ý nghĩa hiển nhiên của nó. Tuy nhiên, họ lại vội thêm rằng, trong thế giới ngày nay, những lời này là không thể chấp nhận được, ngay cả đối với các Kitô hữu, do đó, họ cũng loại bỏ chúng. Cuối cùng, một số người tin rằng ý tưởng về Satan, bất kể nguồn gốc thế nào, cũng không còn quan trọng nữa, và nếu chúng ta cứ kiên trì làm rõ vấn đề, thì các giáo huấn của chúng ta sẽ mất đi tính khả tín và sẽ che khuất sự tập trung của chúng ta vào Thiên Chúa là Đấng đáng chú ý duy nhất.

Sau hết, tất cả những điều trên chủ trương rằng danh xưng Satan và ma quỷ không là gì khác hơn là sự hiện thân thực dụng và hoang đường mà mục đích của chúng chỉ là để nhấn mạnh một cách ấn tượng ảnh hưởng của sự dữ và tội lỗi trên nhân loại, do đó, nó chỉ đơn giản là một cách nói, và thời đại tân tiến của chúng ta cần giải thích lại nó để tìm một đường lối khác để dạy cho các Kitô hữu bổn phận chiến đấu chống lại tất cả các lực lượng sự dữ trên thế giới.

Những quan điểm này được trình bày với một màn trình diễn uyên thâm bởi các tạp chí và một số tự điển thần học. Nó rất đáng quan tâm. Người tín hữu quen giữ những lời cảnh báo của Đức Kitô và các bản văn của các tông đồ một cách nghiêm chỉnh. Những người thông thạo khoa Kinh Thánh không thể không nhận ra rằng họ phải đối phó với mặt trận làm thay đổi quan điểm quần chúng và sẽ tự hỏi tiến trình giải huyền (demythologizing), đã bắt đầu nhân danh khoa chú giải (hermeneutic), sẽ dẫn họ đi đến đâu.

Việc chữa người bị quỷ ám được chính Đức Kitô thực hiện đã diễn ra vào những dịp mà về sau đã chứng minh là có tính quyết định trong trình thuật về sứ vụ của Ngài. Những cuộc trừ quỷ của Ngài đã trình bày và đã hướng đưa vấn đề về sứ mạng Ngài và Ngôi vị Ngài, như là hiển nhiên khỏi những phản ứng mà những cuộc trừ quỷ đó gây nên. Chúa Giêsu không bao giờ đặt Satan ở trung tâm của Phúc Âm, nhưng Ngài đã nói về nó với những tuyên bố quan trọng vào những lúc rất quan trọng.

Trước hết, Ngài đã bắt đầu sứ mạng của Ngài bằng việc chấp nhận để bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc. Trình thuật đúng đắn của Marcô về biến cố này cũng dứt khoát như sự mô tả của Matthêu và của Luca. Rồi Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta chống lại đối thủ này trong bài giảng trên núi và trong lời kinh mà Ngài đã dạy cho các môn đệ Ngài, kinh Lạy Cha; về điểm này nhiều học giả Kinh Thánh - được sự hỗ trợ bởi những thực hành phụng vụ - đồng ý. Sách Khải Huyền, hơn mọi sách, là một bức tranh hoành tráng qua đó uy quyền của Đức Kitô phục sinh chiếu sáng rực rỡ theo các chứng nhân của Phúc Âm của Ngài. Sách Khải Huyền công bố cuộc chiến thắng khải hoàn của con chiên bị giết, nhưng chúng ta sẽ tự lừa dối mình hoàn toàn về bản tính của chiến thắng này nếu chúng ta không nhìn thấy trong đó sự kết thúc của cuộc chiến lâu dài. Một cuộc chiến bao gồm Satan, các thần của nó, và các nhân vật lịch sử của chúng, cả cá nhân lẫn sự can thiệp của những lực lượng nhân loại đối lập với Chúa Giêsu. Thực ra, chính sách Khải huyền cuối cùng đã lột trần căn tính của Satan bằng việc tiết lộ những điều bí ẩn nơi nhiều danh xưng và những biểu tượng trong suốt bộ Kinh Thánh. Hành động của ma quỷ diễn ra qua các thế kỷ của lịch sử nhân loại, dưới mắt Thiên Chúa. Hiển nhiên là phần đông các giáo phụ, bắt đầu với Origênê, đã bỏ cái ý tưởng là các thần sa ngã đã phạm tội xác thịt và đã nhìn thấy căn nguyên các cuộc sa ngã của họ ở trong sự kiêu ngạo của họ - tức là, trong ước muốn của họ muốn nâng mình lên trên chỗ đứng của mình, để khẳng định sự độc lập của mình, và muốn được coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Tiếp theo sự kiêu hãnh, nhiều giáo phụ đã nhấn mạnh đến sự ác độc của Satan chống lại loài người. Theo thánh Irênê, sự phản bội của Satan bắt đầu khi nó đã trở nên ghen tương về sự sáng tạo loài người và cố gắng làm cho con người khởi loạn chống lại Đấng sáng tạo nên mình. Tertulianô nói rằng Satan nỗ lực chống lại kế hoạch của Thiên Chúa bằng cách ăn cắp sáng kiến các bí tích được Chúa Kitô thiết lập để lập ra những huyền tích ma thuật. Do đó, những giáo huấn của các giáo phụ làm vang lên một cách mạnh mẽ và trung thành chiều kích đức tin và đường hướng của Tân Ước.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§18 - NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ CẦN XÂY DỰNG LẠI

"Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ" (Mc 16,17). Lời khẳng định đơn giản kết thúc Phúc Âm Marcô này đã đủ để dùng làm nên đường hướng mục vụ hoàn hảo cho việc giải thoát trong suốt những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Justin, Tertulianô, và Origênê đều nói cho chúng ta rằng mỗi Kitô hữu là một nhà trừ quỷ, tức là có quyền trừ quỷ, quyền đó được thành lập trên đức tin và nhân danh Chúa Giêsu. Rồi các công thức trừ quỷ bắt đầu nhân rộng và được hệ thống lại. Trong khi ấy những người có thẩm quyền trong Giáo Hội bắt đầu điều chỉnh các việc trừ quỷ, ủy thác hầu hết các trường hợp nghiêm trọng chỉ cho các cá nhân có khả năng. Đồng thời Giáo Hội thêm nhiều các á bí tích, cho phép mọi người dùng chúng trong những tình huống nhẹ.

Bắt đầu vào thế kỷ mười bảy, khi hầu hết các cuộc trừ quỷ hết sức nghiêm trọng đã được dành cho các giám mục hoặc cho các linh mục được giám mục ủy cho, như trong trường hợp ngày nay, mỗi giáo phận đều có đầy đủ các nhà trừ quỷ. Cơn khủng hoảng hiện nay của sự vô tín trong thực hành đã khiến cho các giám mục tránh đối mặt với một vấn đề vốn là một phần của mọi thực hành mục vụ thông thường của mỗi giáo phận. Hậu quả là các linh mục không được chuẩn bị cũng không sẵn lòng chấp nhận chức vụ này. Giáo luật khuyên riêng các linh mục coi xứ hãy đặc biệt gần gũi các gia đình và các cá nhân đang đau khổ; hãy giúp đỡ người nghèo, người bệnh tật, túng thiếu, và những ai đang chịu những thử thách nghiêm trọng (điều 529). Chắc chắn rằng những chỉ dẫn này bao gồm những nhu cầu đặc biệt của những người đang là nạn nhân của ma quỷ. Nhưng còn ai tin những nạn nhân này?

Kết quả là, việc chạy đến với các phù thủy, thày cúng, kẻ bói bài, những người bỏ bùa ngải ngày càng gia tăng; có rất ít các nạn nhân chạy đến cùng các nhà trừ quỷ trước khi đã chịu đau khổ dưới tay những người khác. Chúng ta đang chứng kiến sự ứng nghiệm những lời trong Kinh Thánh liên quan đến Vua Ahaziah. Trong lúc vua bị bệnh nặng, ông đã sai sứ giả đi cầu vấn Baalzebub (vua các loài quỷ!), thần của dân Ekron, để hỏi cho biết tương lai. Tiên tri Êlia đã chặn các sứ giả này và hỏi họ: "Ở Israel không có Thiên Chúa hay sao mà các ngươi đi hỏi thần Baalzebub?" (2Vua 1, l-4). Ngày nay, Giáo Hội Công Giáo đã quá lơ là với sứ mạng đặc biệt này, và con cái Giáo Hội không chạy lại với Thiên Chúa nữa nhưng là tìm đến với Satan.

"Nhu cầu lớn lao nhất của Giáo Hội ngày nay là gì? Đừng có nghĩ rằng câu trả lời của chúng tôi là quá giản dị hoặc mê tín và không thực tế: một trong những nhu cầu lớn nhất ngày nay là bảo vệ cho khỏi sự dữ mà chúng ta gọi là ma quỷ" (Paul VI, 15.11.1972). Trong khi những lời của Đức Thánh Cha nhằm nhắm đến những lãnh vực rộng lớn hơn nhiều, thì hiển nhiên là những việc trừ quỷ cũng được bao gồm.

Uỷ ban chuyên trách đang duyệt lại sách Nghi thức phải đối phó với nhiều công việc rất phức tạp. Thêm vào với việc duyệt lại kinh nguyện và các qui tắc trừ quỷ, cũng phải bàn đến toàn thể đường lối mục vụ về vấn đề.

Hiện nay, sách Nghi Thức trực tiếp đề cập đến chỉ trường hợp quỷ nhập, là trường hợp nghiêm trọng nhất và hiếm có nhất trong tất cả các hoạt động của ma quỷ. Trong thực tế, các nhà trừ quỷ phải quan tâm đến mọi kiểu can thiệp của ma quỷ: quỷ hành (nhiều hơn trường hợp quỷ ám hoàn toàn), quỷ ám ảnh, quỷ quấy phá nhà cửa, và đến hoạt động khác xem ra có lợi từ các lời cầu nguyện của chúng ta. Câu ngạn ngữ cổ: "natura non facit saltus" (thiên nhiên không nhảy vọt, nhưng tiến từ từ, qua dòng tiến hoá) cũng có giá trị cho hoạt động Satan. Chẳng hạn, không có sự phân biệt rõ ràng giữa trường hợp quỷ hành và quỷ nhập, cũng như đường ranh giữa quỷ hành và các sự dữ khác cũng không rõ ràng. Một số những bệnh nạn thể lý có thể bị gây ra bởi ma quỷ, cũng như chắc chắn nó gây ảnh hưởng trên một số hình thức bệnh tinh thần (tình trạng thường xuyên sống trong tội trọng, đặc biệt trong những trường hợp hết sức nghiêm trọng). Tôi đã nhìn thấy những lợi ích của việc làm một cuộc trừ quỷ vắn tắt, bên cạnh kinh nguyện bình thường cầu cho bệnh nhân, khi tôi nghi ngờ căn bệnh có nguồn gốc ma quỷ. Thỉnh thoảng tôi đã làm một cuộc trừ quỷ vắn tắt trong khi giải tội khi tôi phải đối mạt với tội đặc biệt ương bướng, như tội dâm dục đồng phái. Thánh Alphongsô Liguori, Tiến sĩ Giáo Hội về thần học luân lý, đã nói với các nhà giải tội rằng linh mục, trước hết mọi sự, phải trừ quỷ cách kín đáo bất cứ khi nào nghi có ma quỷ quấy phá.

Theo lối giải thích ngạt cuốn Nghi Thức hiện hành, nhà trừ quỷ chỉ được phép can thiệp khi hồ nghi có quỷ nhập. Tất cả những trường hợp có ảnh hưởng sự dữ khác có thể được giải quyết qua những biện pháp thông thường để nhận được ân sủng: cầu nguyện, lãnh các bí tích, á bí tích, cầu nguyện nhóm cho sự giải thoát... Đây là một lãnh vực quá rộng bị bỏ rơi cho sáng kiến riêng tư mà không có bất cứ qui tắc đặc biệt nào. Cuối chương này có lá thư của thánh bộ Giáo lý Đức tin gửi cho tất cả các giám mục vào ngày 29.9.1985. Thư này nhắc nhở cho các giám mục về những qui tắc hiện hành, mà không nói đến những vấn đề phức tạp mà ủy ban xét duyệt sách Nghi thức đang phải đối phó. Tôi không biết các giám mục có gửi những bài bình luận và những đề nghị cho uỷ ban đó không, nhưng tôi hồ nghi rất nhiều, vì sự thiếu quan tâm hiện nay đến vấn đề.

Đức Hồng y Suenens chắc chắn là một vị nhạy cảm nhất trong các giám mục trước vấn đề trừ quỷ. Ngài biết rất rõ những thực tế hiện nay bởi vì ngài sống nó qua những lời cầu nguyện giải thoát được thực hành bởi các nhóm canh tân. Trong cuốn sách của ngài, cuốn mà tôi đã nêu trên, ngài viết: "Cần phải bàn giải để xác định ranh giới rõ ràng cho những việc giải thoát khỏi ma quỉ được phép thực hiện mà không cần đến sự uỷ quyền hay việc trù quỉ. Vì thoạt nhìn, làn ranh có vẻ rõ ràng: trường hợp nghi có quỷ nhập thực sự thì chỉ đức giám mục và những người mà ngài ủy nhiệm mới được giải quyết. Còn các trường hợp khác đều là lãnh vực bỏ ngỏ và không có luật nào ràng buộc, do đó, ai làm cũng được."

Tuy nhiên, Đức Hồng Y biết rất rõ ràng những trường hợp quỷ ám thực sự thì ít và đòi hỏi một sự chẩn đoán chuyên môn và đặc biệt trước khi chúng có thể được xác định. Do đó, ngài thêm: "Mọi sự ở ngoài trường hợp quỷ ám thực sự thì giống như một lãnh vực mà các ranh giới của nó lờ mờ khó xác định, nơi còn nhiều lẫn lộn nhập nhằng. Sự quá phức tạp về thuật ngữ không giúp cho đơn giản hoá vấn đề; không có định nghĩa nào thống nhất cả, và chúng ta tìm thấy nhiều vấn đề khác nhau dưới cùng một nhãn hiệu (Rinnovamento e potenza delle tenebre,p.95).

Trong những trang kế tiếp, đức Hồng y cho những gợi ý thực tế: "Sẽ rất hữu ích nếu, trong số những cách khác, chúng ta giải thích rõ ràng thuật ngữ và xác định rõ ràng và chính xác sự khác nhau giữa cầu nguyện giải thoát và trừ quỷ giải thoát, với sự nhấn mạnh đến ma quỷ. Sự trừ quỷ giải thoát trong trường hợp có quỷ nhập, được dành riêng cho giám mục phân định. Tuy nhiên, khi xảy ra những cuộc trừ quỷ được thực thi ngoài những trường hợp quỷ ám hoàn toàn, thì không có ranh giới rõ ràng" (sđd. tr. 119-120). Nói cho ngay, tôi có thể nhìn thấy một đường phân ranh rõ ràng theo những tiêu chuẩn sau đây: một cuộc trừ quỷ đích thực được dành cho một giám mục hoặc người đại diện ngài là một á bí tích, và như thế nó có sự cầu bầu của Giáo Hội làm bảo chứng; tất cả những cuộc trừ quỷ khác là một hình thức cầu nguyện riêng tư, ngay cả khi được thực hiện bởi một nhóm. Tôi không biết tại sao Đức Hồng y Suenens đã không nói về những cuộc trừ quỷ như một á bí tích và như hình thức giải thoát độc nhất có thể được gọi đúng là trừ quỷ. Mặc dù ngài dành vài chương trong sách của ngài về á bí tích và kể ra một số ví dụ, nhưng ngài không liệt kê sự trừ quỷ vào trong số đó; theo ý kiến của tôi, việc gộp nó vào số các á bí tích sẽ định nghĩa nó cách rõ ràng, ít nhất về điểm này. Tôi chắc rằng Đức Hồng y sẽ tha thứ cho tôi về nhận xét này.

Đức Hồng y Suenens có những gợi ý đề nghị thực tiễn như sau: "Tôi đề nghị dành riêng cho giám mục không chỉ những trường hợp quỷ nhập, theo những qui tắc cũ, nhưng hãy để cho ngài quyền phán quyết trên tất cả các trường hợp nghi có ảnh hưởng của ma quỷ. Mặc dù chức vụ trừ quỷ đã biến mất, ít nhất như một chức nhỏ, thì bất cứ hội đồng giám mục nào cũng có thể xin Roma cho tái lập lại nó" (Sđd. tr. 121-122). Đức Hồng Y đề nghị cho phép giáo dân được lãnh phận vụ của nhà trừ quỷ trong những trường hợp ít nghiêm trọng.

Cha Grua trong cuốn sách tuyệt vời mà tôi đã trích dẫn, đưa ra những đề nghị khác. Ngài đề cập đến lời khuyên của Hồng y Suenens và thêm một số lời khuyên có thể theo được tạm thời trong khi chờ đợi những quyết định chính thức. Những đề nghị này rất thực tiễn và nếu được thi hành, có thể cung cấp chất liệu tốt cho uỷ ban duyệt xét phần Nghi thức trừ quỷ.

Trong mỗi giáo phận, đức giám mục nên bổ nhiệm một nhóm người sáng suốt, gồm ba hay bốn người, để làm việc cận kề với mỗi nhà trừ quỷ, mỗi nhóm nên có một nhà tâm lý học và một bác sĩ. Mỗi trường hợp được nghi có hoạt động của ma quỷ nên đem tới nhóm này, để sau cuộc nghiên cứu thích hợp, sẽ đưa bệnh nhân đến đúng chỗ: một bác sĩ, một nhà trừ quỷ, hoặc một nhóm cầu nguyện. Tất cả các sự cố nhẹ hơn nên đưa tới nhóm cầu nguyện, hoặc các nhóm tuỳ theo sự cần thiết, và nhà trừ quỷ sẽ chỉ được giới thiệu cho các biến cố nghiêm trọng. Một linh mục nên luôn luôn có mặt tại các nhóm cầu nguyện.

Do đó, sự giải thoát luôn luôn nên là một phần của sự chăm sóc mục vụ dành cho bệnh nhân. Một liệu pháp đúng nghĩa nên bao gồm những việc sau: Phúc Âm hoá, thực hành bí tích thống hối và Thánh Thể, các việc thiêng liêng, gia nhập các nhóm cầu nguyện. Khỏi phải nói, trong các biến cố nhẹ, một nhóm cầu nguyện không được phép trừ quỷ nhưng chỉ cầu nguyện trên bệnh nhân, trừ khi có sự có mặt của một linh mục có đủ thẩm quyền (Sđd. tr. 113- 114).

Việc tăng thêm các nhà trừ quỷ và huấn luyện họ biết thi hành tác vụ của mình cho đúng không chỉ là những thách đố duy nhất. Có nhiều vấn đề khác còn bỏ ngỏ cần phải được giải quyết trước khi điều này sẽ không còn là một chương trong sách của Giáo Hội bị niêm phong với hàng chữ "Công trình đang tiến hành". Ma quỷ không bao giờ ngưng hoạt động, trong khi các đầy tớ Chúa đang ngủ, y như trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng kể lại. Bước đầu tiên, bước cơ bản, là đánh thức sự hiểu biết của các giám mục và các linh mục, theo đúng âm điệu học thuyết mà Kinh Thánh, Truyền Thống, và Huấn quyền đã luôn luôn truyền đạt, cả qua Công Đồng Vaticanô II, các giáo huấn của các Đức Thánh Cha gần đây, và mới đây nhất là cuốn giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, mà tôi đã trích dẫn trong các chương đầu. Mục đích chính của cuốn sách của tôi là góp phần cho việc đánh thức này, và tôi sẽ cho là thành công nếu tôi đạt được mục tiêu này, không quan tâm đến bất cứ lời khen ngợi, chỉ trích hoặc số lượng cuốn được bán ra lớn thế nào.

o0o

PHỤ CHƯƠNG MỘT TÀI LIỆU CỦA BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN

Đây là một lá thư đã được gửi cho tất cả mọi đấng bản quyền trên thế giới để nhắc nhớ cho họ về những chỉ dẫn hiện hành đối với việc trừ quỷ. Tôi không biết tại sao một số tạp chí lại nói về "những hạn chế mới". Không có gì mới mẻ, nhưng lời khuyên sau cùng là quan trọng. Cái mới mẻ có lẽ nằm ở đoạn thứ hai, bởi vì nó nhắc lại rằng người tín hữu không thể dùng cách trừ quỷ của Đức Lêô XIII, nhưng lá thư không lưu ý rằng các linh mục cần có phép của giám mục. Tôi không chắc sự thay đổi này có do thánh bộ định hay không. Tôi có một số hoài nghi về đoạn thứ ba. Lá thư được đề ngày 29.9.1985. Đây là bản dịch của tôi:

Vài năm nay thấy có sự gia tăng con số những cuộc nhóm họp đạo đức nhằm giải thoát khỏi những ảnh hưởng của ma quỷ, cho dù đó không phải là những cuộc trừ quỷ thực sự và đúng nghĩa. Những nhóm này, dù khi có linh mục hiện diện, thì vẫn do người giáo dân đứng đầu.

Do đó, người ta đã hỏi thánh bộ Giáo lý Đức tin nên nghĩ về điều này như thế nào. Đề nghị tất cả các đấng bản quyền khác nên trả lời như sau:

1. Điều 1172 của bộ Giáo luật tuyên bố rằng không ai có thể thi hành việc trừ quỷ hợp pháp trừ khi có phép riêng và rõ ràng do đấng bản quyền địa phương ban (§1.). Giáo luật cũng thiết định rằng phép này bản quyền địa phương chỉ nên ban cho các linh mục nổi bật về lòng đạo đức, có kiến thức, khôn ngoan và có đời sống vẹn toàn (§2). Do đó, bắt buộc các giám mục phải xem xét để tuân theo những qui tắc này.

2. Do đó, cứ chiếu theo những chỉ thị này thì không có phần tử nào trong các tín hữu Kitô giáo có thể dùng công thức trừ quỷ chống lại Satan và các thần sa ngã, rút ra từ điều đã được làm thành luật bởi đức Lêô XIII, và họ lại càng không có thể dùng toàn bộ bản văn trừ quỷ. Các giám mục hãy giúp các tín hữu chú ý đến điều này nếu thấy cần thiết.

3. Sau cùng, vì những lý do tương tự, yêu cầu các giám mục hãy cảnh giác - với cả những trường hợp trong đó một sự quỷ ám thực sự đã được trừ khỏi, nhưng ảnh hưởng của ma quỷ dường như vẫn còn biểu lộ cách nào đó - đừng cho những người không có đủ những tài năng cần có, được phục vụ trong tư cách làm đầu các cuộc họp nơi mà, để đạt được sự giải thoát, người ta sử dụng những lời nguyện gây áp lực cho ma quỷ bằng cách trực tiếp tra hỏi chúng và tra khảo để biết căn tính của chúng.

Tuy nhiên, việc loan báo những qui tắc này không nên cấm tín hữu đọc lời kinh mà, như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, họ có thể được giải thoát khỏi sự dữ (x. Mt 6,13). Sau cùng, các mục tử cũng nên tận dụng những dịp như vậy để củng cố lại điều mà truyền thống của Giáo Hội dạy về chức năng riêng của các bí tích và sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần và các thánh trong trận chiến thiêng liêng của người Kitô hữu chống lại ác thần (Cong, Doctrine of the Faith, 29.9.1985, thư gửi các bản quyền địa phương. Prot. Số 291/70; AAS 77 (1985): 1169-70; Ench Vat 9, nn. 1663-67).

Thật nguy hiểm cho người 'tay mơ' tấn công ma quỷ

Lá thư vừa kể trên cảnh cáo phản đối bất cứ sự giải quyết trực tiếp nào đối với ma quỷ và nhắc nhở rằng những người không được ban cho khả năng đặc biệt thì đừng có hỏi tên ma quỷ làm chi. Sách Công vụ thuật lại một sự kiện đặc biệt phù hợp:

Thiên Chúa dùng tay ông Phaolô mà làm những phép lạ phi thường, đến nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh, và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất. Có mấy người Do-thái đi đây đi đó làm nghề trừ quỷ cũng thử lấy danh Chúa Giêsu mà chữa những người bị tà thần ám. Họ nói: "Nhân danh Đức Giêsu mà ông Phaolô rao giảng, ta truyền cho các ngươi!" ông Sceva nọ, thượng tế Do thái, có bảy con trai thường làm như vậy. Nhưng tà thần đáp: "Đức Giêsu, tao biết; ông Phaolô, tao cũng biết; còn bay, bay là ai? Rồi người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. Mọi người ở Ephêsô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên hạ tán dương danh Chúa Giêsu. Trong số các tín hữu, có nhiều người đến thú nhận và kể ra những phù phép của mình. Khá đông người làm nghề phù thuỷ đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi người; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc. Như vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh (Cv 19, 11-20).

Bên cạnh sự không may của bảy anh em, tôi muốn nhấn mạnh rằng người ta được hoán cải và từ bỏ thực hành ma thuật (thờ lạy Satan) để ôm ấp lời Chúa (thờ phượng Thiên Chúa). Điều này rất khác với điều đã xảy ra một ngày nọ với cha Candido, người đã thi hành tác vụ này dưới thẩm quyền Giáo Hội. Một hôm, trước sự hiện diện của một bác sĩ tâm lý, ngài trừ quỷ cho một người đàn bà khoẻ mạnh, một con người rất dễ nổi điên lên. Bất thình lình, bà ta nhỏm dậy khỏi chiếc ghế đang ngồi, nắm chặt tay, xoay vòng - như một lực sĩ làm trước khi lấy hết sức để ném đĩa - và đấm mạnh vào thái dương bên phải của nhà trừ quỷ bằng tất cả sức lực của bà. Âm thanh của cú đấm vang dội qua khắp cả căn phòng thánh rộng lớn, và ông bác sĩ tâm lý lo lắng nhảy bổ về phía vị linh mục. Cha Candido vẫn bình thản tiếp tục trừ quỷ, vẫn mỉm cười luôn như thói quen của ngài. Khi xong, ngài nói rằng lúc đó ngài cảm thấy chỉ như một găng tay bằng nhung sượt qua thái dương của ngài. Rõ ràng là trời cao đã che chở ngài một cách mà tôi không ngần ngại gọi là phi thường.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§19 - KẾT LUẬN

Tôi đã tiến đến phần cuối của tác phẩm thế mà tôi vẫn chưa nói hết những gì đáng lẽ ra tôi đã có thể nói. Tôi đã viết tác phẩm này với chủ đích biến những kết quả từ những kinh nghiệm trực tiếp của tôi thành sự giúp đỡ thực tiễn cho người tín hữu, bởi vì chẳng có cuốn sách nào khác ấn hành ngày nay đã làm điều đó. Tôi hy vọng rằng tôi sẽ giúp ích cho tất cả những ai quan tâm đến chủ đề trừ quỷ. Đặc biệt tôi đã không quên các linh mục đồng sự của tôi; tất cả họ nên có ít nhất là kiến thức căn bản và cụ thể về chủ đề này, bởi vì họ phải có thể phân biệt rõ khi nào có sự hiện diện của ma quỷ và cần đến một nhà trừ quỷ, hoặc khi nào sự trừ quỷ sẽ chỉ vô ích. Tôi đã nói điều này, nhưng xin lặp lại vì nó rất quan trọng.

Tôi phải cám ơn Đức Hồng Y Poletti, người đã thấy tôi hoàn toàn chưa được chuẩn bị gì khi trao trách nhiệm này cho tôi, và tôi đã nhắm mắt chấp nhận. Bây giờ tôi nhận thấy rằng khả năng, được ban cho tôi mà không do công trạng của tôi, là một sự hoàn tất vai trò linh mục của tôi; tức là, cũng như tôi cử hành Thánh Lễ, giảng dạy, và giải tội, thì tôi cũng trừ quỷ khi cần thiết. Tôi rất vui vì có thể giúp đỡ nhiều người, là những người đang chịu đau khổ và những người chỉ cần một lời cảm thông. Về điểm này, tôi cảm thấy giống như tôi chỉ là linh mục có một nửa, nếu tôi không có khả năng này, dù cho đó là một hình thức ngoại lệ của tác vụ linh mục tức là một phần sống còn của hoạt động mục vụ linh mục thông thường, hoặc ít nhất nên là như thế.

Tôi sẽ nói rằng tôi đã lãnh nhận những lợi ích thiêng liêng lớn lao từ tác vụ này. Bởi vì, có thể nói, tôi đã chạm tay vào thế giới vô hình, đức tin của tôi đã được gia tăng. Bởi vì tôi liên tục nhận ra sự bất lực hoàn toàn của con người trước những căn bệnh này, tôi đã thăng tiến trong đời sống cầu nguyện và sự khiêm nhường; nhiều như chúng ta cố gắng cầu nguyện với lòng sùng mộ và tận tâm, chúng ta thực sự là "những đầy tớ vô ích". Nếu Chúa không trợ giúp, những kết quả của những nỗ lực của chúng ta và khả năng mà chúng ta đạt được qua kinh nghiệm chỉ là con số không. Khi tôi nói con số không, tôi không phóng đại; chính Thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã cho mọc lên" (1Cr 3,6).

Tôi cũng muốn bác lại một sự tin tưởng phổ biến, mà tôi không biết bằng cách nào nó đã thuyết phục được một phần kha khá các linh mục, đó là tin rằng ma quỷ sẽ trả đũa lại nhà trừ quỷ. Thày của tôi, Cha Candido, người trừ quỷ toàn phần thời gian suốt ba mươi sáu năm, đã chịu một số bệnh tật thể lý, một phần do tuổi tác, nhưng không do ma quỷ. Cha Pellegrino Ernetti, một đan sĩ Biển Đức ở thành Venise, đã trừ quỷ bốn mươi năm, và tác vụ này chẳng cải thiện cũng chẳng làm tồi tệ thêm sức khỏe của ngài. Tôi sẽ tiếp tục để lặp lại điều này - và tôi xin các bạn hãy tin tôi: ma quỷ đã gây ra cho mỗi người chúng ta nhiều tổn thất như nó được phép làm. Thật là sai lầm khi tin rằng nếu tôi để nó yên nó cũng sẽ để cho tôi yên. Đó không chỉ là một sai lầm, đó cũng là một sự phản bội tác vụ linh mục của chúng ta nữa, tác vụ đã được chỉ định để dẫn dắt các linh hồn đến cùng Thiên Chúa, cả đến bằng cách giải thoát họ khỏi quyền lực Satan, nếu cần. Để đạt được mục đích này, việc Phúc Âm hoá là điều quan trọng chủ yếu, rồi đến các bí tích, và sau hết là các á bí tích, trong số đó có việc trừ quỷ. Một linh mục mà sợ ma quỷ trả thù thì cũng giống như người chăn chiên sợ chó sói. Đó là một nỗi lo không căn cứ.

Thật là vô ích việc đánh giá quá cao bất cứ sự trả thù nào do ma quỷ dàn dựng nhằm làm thất đảm những nhà trừ quỷ. Đó là những trường hợp hi hữu, và tôi sẽ đề cập đến một trong số đó. Một hôm một vị linh mục đang giúp cha Candido trong khi ngài đang trừ quỷ cho một anh thanh niên. Đang lúc trừ thì y phục của nạn nhân bắt lửa; không có gì nhiều xảy ra, chỉ một ngọn lửa bốc lên trên vai anh ta. Về sau bà mẹ bảo tôi rằng cả áo lót của anh ta cũng bị cháy, nhưng anh chàng không bị đau đớn. Tuy nhiên, trong sự kiện này, đột nhiên có mùi lưu huỳnh, và ma quỷ quay về phía vị linh mục, đe doạ ngài sẽ bị hậu quả trầm trọng.

Một vài đêm sau vị linh mục đang lái xe từ Naple tới Roma. Bất thình lình hai luồng ánh sáng đến gần áp sát bên ngài; ngài không thể hình dung ra điều gì đã xảy ra và ngài đã quyết định dừng lại ở một trạm dịch vụ. Trong khi ngài đang tiến gần đến khu vực dịch vụ, xe của ngài bị bốc cháy. Vị linh mục buộc phải dừng lại, mở các khoá và thoát ra. Các tay lái môtô khác chạy lại chỗ xe hơi, la lên: "Có một người ở trong xe, có một người ở trong xe!" Vị linh mục đã không thể làm cho họ tin rằng ngài chỉ lái xe có một mình. Đột nhiên động cơ của chiếc xe đang cháy bắt đầu khởi động, và chiếc xe bắt đầu di chuyển về phía trước một cách chậm chạp, giống như một trái cầu lửa, tiến về phía trạm bơm xăng. Đồng thời, một mùi lưu huỳnh nồng nặc xông lên trong không khí. Vị linh mục nhận ra cái mùi giống y như mùi ngài đã ngửi thấy trong cuộc trừ quỷ và ngài bắt đầu cầu nguyện. Lập tức chiếc xe ngừng lại nhưng vẫn tiếp tục cháy cho tới khi nó bị thiêu huỷ hoàn toàn.

Tôi đề cập đến tai nạn này, bởi vì tôi muốn vẽ bức tranh hoàn hảo, nhưng đó sẽ là một sự tổng quát hoá nếu chúng ta nhìn điều này như một qui luật; nó thực sự là một ngoại lệ. Mọi người đều biết rằng tác vụ linh mục bao hàm những nguy cơ và những bất tiện cho linh mục, ngay cả khi ông ta không trừ quỷ. Thánh Phêrô nói: "Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang của Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ" (1Pr 4,13). Lợi ích của các linh hồn là giá trả cho mỗi hy sinh.

Linh mục phải tin vào thiên chức linh mục của mình; ngài phải tin vào quyền năng mà Chúa đã ban cho mình; ngài phải bước theo từng bước chân của các tông đồ và của các linh mục thánh thiện đã đi trước ngài. Đức Thánh Cha Gioan XXIII, vào lúc bắt đầu triều đại giáo hoàng của ngài, đã nhắc mọi người nhớ đến cha sở họ Ars. Thật là vị thánh đã kéo các linh hồn ra khỏi cạm bẫy của Satan, và ngài đã phải đau khổ nhiều vì ma quỷ. Mặt khác, ngài không phải là một nhà trừ quỷ và đã không trừ quỷ cho ai. Chính Chúa là Đấng trông nom, và ngài không bao giờ cho chúng ta những thử thách lớn hơn sức chúng ta có thể chịu. Tuy nhiên, thật khốn nạn cho chúng ta, nếu chúng ta lùi bước vì nhát đảm và thoái thác bổn phận của chúng ta.

Chúng ta đã có tặng ân của Thánh Thần, phép Thánh Thể, lời Thiên Chúa, sức mạnh của danh Chúa Giêsu, sự che chở của Đức Trinh Nữ diễm phúc, sự cầu bầu của các thiên thần và các thánh; thế mà còn đi sợ một kẻ đã bại trận thì chẳng phải là đần độn lắm sao? Tôi nguyện xin Đức Maria Vô nhiễm, kẻ thù của Satan và Đấng chiến thắng trên nó ngay từ lúc loan tin Phục sinh đầu tiên, xin Mẹ soi sáng, che chở, và gìn giữ chúng ta trong suốt cuộc chiến nơi dương thế cho tới khi chúng ta chiếm được phần thưởng vĩnh cửu. Đặc biệt tôi cầu xin cho các giám mục Công Giáo, những vị bị bắt buộc phải mang lấy trách nhiệm của tất cả những người đang đau khổ vì ma quỷ; xin cho các ngài đáp ứng được nhu cầu, phù hợp với lề luật và truyền thống của Giáo Hội.

Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội! Thật là niềm an ủi lớn lao cho tôi khi kết thúc tác phẩm với đôi dòng suy tư về Mẹ, Đấng Chúa đặt làm kẻ thù của Satan: "Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người phụ nữ" (Stk 3, 15). Mẹ là Đấng Vô nhiễm bởi vì Mẹ không bao giờ bị tì vết bởi tội nguyên tổ hoặc bởi tội riêng; tức là, Mẹ không bao giờ chịu thua Satan. Mẹ luôn luôn trinh khiết bởi vì Mẹ luôn luôn thuộc về Thiên Chúa, trong thể xác cũng như trong linh hồn, và từ nơi Mẹ Ngôi Lời đã nhận được thân xác. Khi chúng ta suy nghĩ về giá trị của ơn nhập thể, chúng ta nhớ lại ma quỷ, nó không có thể xác vì nó là loài thần linh. Trong cái kiêu căng vĩ đại của nó: nó muốn được là trung tâm của công cuộc sáng tạo; sau cuộc Nhập thể nó bắt buộc phải nhận ra rằng chính Đức Kitô mới là trung tâm của sáng tạo và rằng Đức Kitô là Thiên Chúa thật và là con người thật. Nó cũng bị bắt buộc phải thừa nhận rằng cuộc Nhập Thể cũng đánh dấu bước khởi đầu cho sự bại trận của nó. Đó là lý do tại sao nó cố dùng mọi thủ đoạn để cưỡng bức thể xác con người trở nên dịp tội. Nó cố hạ nhục, đập tan thể xác, như một phản ứng điên cuồng chống lại sự Nhập thể của Ngôi lời, đấng đã hy sinh xác thân chí thánh người để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra tầm quan trọng của tín điều thánh mẫu này: Đức Maria trọn đời đồng trinh là một công cụ của kế hoạch thần linh, đối lập hẳn với Satan.

Đức Maria đã xưng mình là nữ tì của Thiên Chúa, và đã trở nên Mẹ của Thiên Chúa, do đó, đạt được một sự thân mật với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có thể tưởng tượng sự chống đối của Satan trong sự kiện này: nó phản đối Thiên Chúa và quay mặt đi khỏi Ngài, nó trở nên thụ tạo xa cách Ngài nhất. Điều đó cho chúng ta nhận ra sự thất bại hoàn toàn của Satan, nó đã mất hạnh phúc thiên đàng và dìm mình trong hình khổ muôn đời.

Đức Maria, Mẹ của chúng ta, Mẹ của Giáo Hội, Đấng Trung gian tất cả các ân sủng, luôn luôn tỏ cho chúng ta thấy những công việc năng động của Mẹ theo ý muốn của Chúa Kitô, Đấng đã chọn liên kết Mẹ mình vào công việc thánh hoá các linh hồn. Mẹ cũng tỏ cho chúng ta thấy sự đối kháng quyết liệt của Mẹ với tất cả mọi công việc của Satan, bởi vì chúng chống lại kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người, và chính với mục đích này mà Satan bách hại, cám dỗ chúng ta bằng mọi cách có thể, và chưa thoả mãn với việc là gốc rễ mọi sự dữ, tội lỗi, đau khổ và sự chết, nó còn cố gắng lôi kéo chúng ta vào kiếp đoạ đày muôn đời với nó.

Tôi xin dừng lại ở đây. Sau khi viết bốn cuốn sách về Đức Maria, tôi không muốn bắt đầu cuốn thứ năm tại điểm này, khi mà đã đến lúc phải kết thúc. Văn sĩ Manzoni cảnh cáo chúng ta, với lương tri thông thường, rằng một cuốn sách vào một thời điểm là đủ, và đôi khi, một cũng là quá nhiều.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§20 - NHỮNG KINH NGUYỆN GIẢI THOÁT (O0O-HẾT-O0O)

KINH CẦU CHO THOÁT KHỎI SỰ DỮ

Của lễ điển Hy-lạp

Kirie eleison. Lạy Thiên Chúa, Chúa chúng con, là vua muôn đời, toàn năng, dũng lực. Chúa là Đấng đã làm nên mọi sự và là Đấng biến đổi mọi sự theo thánh ý Chúa. Chúa là Đấng xưa ở Babylon đã biến đổi những ngọn lửa của "lò lửa nóng hơn gấp bảy lần" thành làn sương mát và đã che chở cứu thoát ba trẻ em thánh thiện. Chúa là lương y, là nhà trị liệu cho linh hồn chúng con. Chúa là Đấng Cứu Chuộc cho những người chạy đến cùng Chúa. Chúng con nài van Chúa hãy cất đi sức mạnh, trục xuất và xua đuổi mọi mưu mô, sự hiện diện và quyền lực của ma quỷ; mọi ảnh hưởng sự dữ, mọi hoạt động xấu xa, hoặc bùa-nhìn (the evil eye) và những hành động ác ôn nhằm chống lại các tôi tớ Chúa... Ở nơi nào có sự tị hiềm và ác tâm, xin Chúa cho chúng con đầy tràn lòng nhân ái, nhẫn nại, chiến thắng, và tình yêu thương. Ôi lạy Chúa, Chúa là Đấng yêu thương nhân loại, chúng con nài xin Chúa hãy giơ bàn tay quyền năng và cánh tay uy dũng cao cả ra để giúp đỡ chúng con. Hãy cứu giúp chúng con, những người đã được dựng nên theo hình ảnh của Chúa; hãy sai thiên thần hoà bình xuống trên chúng con, để che chở hồn xác chúng con. Để ngài xua đuổi và chế ngự mọi quyền lực sự dữ, mọi nọc độc hoặc ác tâm do những con người đầy lòng ghen ghét thối nát trù yểm chúng con. Khi đó, dưới sự chở che của quyền phép Chúa chúng con có thể hát lên trong tâm tình tri ân: "Chúa là Đấng cứu độ con, con còn sợ chi ai? Con sẽ không sợ sự dữ bởi vì Chúa ở với con, lạy Thiên Chúa của con, là sức mạnh của con, là Chúa quyền năng của con, Chúa của hoà bình, là Cha muôn thuở."

Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, hãy thương xót chúng con, những hình ảnh của Chúa và hãy cứu thoát các tôi tớ Chúa... khỏi mọi đe doạ hoặc điều tai hại từ quỷ ma, và bảo vệ chúng bằng cách nâng chúng con lên trên mọi sự dữ. Chúng con cầu xin nhờ lời cầu bầu của Đức rất thánh vinh hiển trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, các tổng thần sáng láng và tất cả các thánh của Chúa. Amen.

o0o

KINH LẠY LINH HỒN CHÚA KITÔ (ANIMA CHRISTI)

Lạy linh hồn Chúa Kitô, xin thánh hoá con; lạy thân xác Chúa Kitô, xin cứu vớt con; lạy máu thánh Chúa Kitô, xin làm con say mê; xin nước từ cạnh sườn Chúa Kitô, hãy rửa con; xin cuộc khổ nạn của Chúa Kitô hãy củng cố cho con: Ôi lạy Chúa Kitô nhân từ, xin lắng nghe con; con xin được trốn ẩn trong thương tích Chúa; đừng để con bao giờ lìa xa Chúa; hãy che chở con khỏi sự dữ; đến giờ chết, xin hãy gọi con; và cho con đến cùng Chúa; để cùng với các thánh, con sẽ ca ngợi Chúa đến muôn muôn đời. Amen.

o0o

KINH XIN CHỐNG LẠI MỌI SỰ DỮ

Xin thần khí của Thiên Chúa chúng con là Cha và Con và Thánh Thần, Ba Ngôi Cực Thánh, Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm, các thiên thần các tổng thần và các thánh trên thiên đàng, ngự xuống trên con.

Xin thanh tẩy con, lạy Chúa, xin uốn nắn con, xin đổ đầy con bằng chính Chúa, xin hãy sử dụng con.

Xin hãy đuổi xa khỏi con mọi lực lượng sự dữ, xin phá hủy chúng, chế ngự chúng, để con có thể được mạnh khỏe và làm những việc lành.

Xin xua đuổi xa con tất cả các thứ bùa ngải quỷ thuật, ma thuật đen, hành ác, các trói buộc, lời độc, bùa-nhìn; những quấy nhiễu của ma quỷ, quỷ ám, quỷ hành; tất cả là ác độc, tội lỗi, ghen tương, phản bội, tị hiềm; những sự đau đớn do ma quỷ về thể lý, tâm lý, tinh thần, thiêng liêng.

Xin thiêu đốt tất cả những sự dữ này trong hoả ngục, để chúng không bao giờ đụng chạm đến con và mọi thụ tạo trên khắp thế giới.

Xin hạ lệnh và cấm tất cả các quyền lực đang quấy nhiễu con - nhờ quyền năng của Thiên Chúa toàn năng, nhân danh Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng con, qua sự cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria Vô nhiễm - phải xa khỏi con mãi mãi, và vào lửa hoả ngục muôn đời, nơi chúng sẽ bị trói buộc bởi các Tổng thần Micae, Raphael, Gabriel, các thiên thần bản mạnh, và nơi chúng sẽ bị đạp giập dưới gót chân của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Maria.

o0o

KINH XIN CHỮA LÀNH NỘI TÂM

Giêsu ơi, xin Ngài thương cứu chữa

Những mảnh lòng đang nát nhừ héo hon

Xin cứu chữa những đau đớn mỏi mòn

Khiến tim con mang sầu thương áy náy

Đặc biệt con xin Ngài chữa chạy

Hết những ai gây tội ác tày đình.

Cũng xin ngài ngự đến giữa dòng sinh

Chữa lành muôn tổn hại về tâm lý

Khiến tuổi thơ con ôm sầu bi luỵ

Và suốt đời dầu giãi những tang thương

***

Chúa biết con nặng gánh nỗi đoạn trường

Xin trao phó trong tim người mục tử

Ôi quả tim nhân lành tình tràn ứ

Con xin vì công nghiệp vết thương sâu

Của thánh tâm rộng mở rất lớn lao

Chữa lành con vết thương lòng bé nhỏ

Chữa con khỏi niềm đau trong trí nhớ

Để không gì xảy đến với đời con

Sẽ làm con vương sầu khổ héo hon

Với muôn vàn nỗi lo âu tràn ứa

***

Xin chữa lành con đi, ôi lạy Chúa

Mọi vết thương độc dữ đã hằn sâu

Đã cắm rễ trong cuộc đời bể dâu.

Chúa ơi Chúa, con chỉ mong tha thứ

Kẻ làm con vương nghìn sầu tư lự

Chúa hãy xem những đau khổ sâu xa

Khiến lòng con không thể thứ tha.

Chúa đã đến thứ tha hồn sầu úa

Xin chữa lành tim con, ôi lạy Chúa.

***

Chữa con đi, ôi Giêsu của con

Những vết thương trong sâu thẳm cõi lòng

Từng gây nên những niềm đau thể lý

Xin dâng Chúa quả tim con bi luỵ

Xin thương nhận thanh tẩy mọi tội tình

Và tạng ban những tình cảm thần linh

Giúp con sống hiền hoà và khiêm hạ

***

Xin chữa lành con đi ôi Chúa

Cả Con đau khổ vì mất những người thân

Và niềm đau dồn nén cả tâm thần

Hãy cho con bình an và vui sướng

Vì Chúa đà phục sinh và hằng sống.

Hãy làm con nên đích thực chứng nhân

Của Đấng Phục sinh, thắng tội, tử thần

Đấng vẫn luôn hiện diện nơi trần thế.

Amen.

o0o

KINH GIẢI THOÁT

Lạy Chúa, Chúa là Đấng quyền năng, là Thiên Chúa, là Cha nhân từ.

Chúng con nài xin Chúa qua sự cầu bầu và trợ giúp của các tổng lãnh thiên thần Micae, Raphael và Gabriel, xin giải thoát các anh chị em chúng con đang làm nô lệ cho thần dữ.

Xin tất cả các thánh trên trời hãy đến cứu giúp chúng con.

Khỏi những lo âu buồn phiền và ám ảnh.

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi sự thù hằn, dâm đãng thèm muốn,

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi những tư tưởng ghen tương, giận hờn chết chóc,

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi mọi tư tưởng tự vẫn và phá thai,

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi mọi hình thức phạm tội dâm dục,

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi mọi sự chia rẽ trong gia đình, và mọi thương tổn bằng hữu.

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Khỏi mọi thứ bùa ngải, ma thuật, và mọi hình thức mờ ám.

Ôi lạy Chúa, xin thương giải thoát chúng con.

Lạy Chúa, Chúa đã nói: "Thày để lại bình an cho các con, thày ban bình an cho các con", xin nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, cho chúng con thoát khỏi mọi thứ bùa thuật và vui hưởng bình an của Chúa luôn luôn. Nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng con được vững lòng tin Chúa hơn.
Related Posts with Thumbnails

Tìm kiếm trên website MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Loading

Danh sách bài đã đăng