Ma Quỷ Trong Thế Giới Ngày Nay 1

Ma Quỷ Trong Thế Giới Ngày Nay


MA QUỶ
Trong Thế Giới Ngày Nay


Một cuốn sách nói chuyện ma quỷ!
Nhưng,
Có ma, có quỷ thật không?
Quỷ ám, quỷ nhập như thế nào?
Những chuyện bùa ngải, thứ ếm là thực hay hư?
Tại sao Thiên Chúa để cho ma quỷ quấy nhiễu, hành hạ con người?

Tất cả những thắc mắc trên đây đều được giải đáp, không phải bằng lý lẽ, nhưng bằng những câu truyện ly kì, kinh dị và khủng khiếp mà Đức Cha Cristiani sẽ thuật lại trong tác phẩm này.
Đây là một cuốn sách đã được tiếp đón nồng nhiệt sau những tháng ngày đằng đẵng trông mong.
Một cuốn sách gây ấn tượng mạnh, hấp dẫn lạ thường, đồng thời sinh nhiều lợi ích cho bất cứ độc giả nào đã một lần đọc qua.


Nguyên tác: PREĂSENCE DE SATAN DANS LE MONDE MODERNE
Éd. France-Empire, Paris

DẪN NHẬP

LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG

Khi nói một quả quyết nào đó là "Lời Chúa trong Tin Mừng", chúng ta xác nhận rằng quả quyết ấy là chân lý vững chắc không cần phải bàn cãi nữa.
Đối với Kitô hữu, Đức Kitô là một quyền bính tối thượng, quyền bính mà ta phải cúi đầu tuân phục, phải hết lòng tin cậy và yêu mến. Ngay cả đối với những người không tin Chúa, Đức Kitô cũng là một trong số những nhân vật phi phàm nhất của lịch sử. Ngài là biểu tượng của ngay thẳng và chân thật. Ngài là người đã nói: "Lời nói của các con phải: có thì nói có, không thì nói không". Tất cả những gì không theo nguyên tắc đó đều thiếu đúng đắn!



Vậy chúng ta hãy tự hỏi Đức Kitô nghĩ gì và nói gì về Satan. Về điểm này cũng như về mọi điểm khác liên quan đến đời sống tôn giáo của con người, sách Tin Mừng đều nói rất chuẩn mực và dứt khoát. Nếu những người mất đức tin không chấp nhận tính chuẩn mực và dứt khoát của Tin Mừng, thì chắc chắn, nếu không nại đến Tin Mừng, họ sẽ không hiểu gì về não trạng tôn giáo của những thế kỷ trước đây ở Pháp. Những ai đã hoặc đang tin rằng mình đã tiếp xúc với ma quỷ, những ai đã bị chúng tấn công như cha sở họ Ars, những ai bị mọi người coi là "bị quỷ nhập" và được người ta trừ quỷ cho, tất cả những người đó đều đã hết lời giải thích những tình trạng mà họ cảm thấy, đã được nói đến trong sách Tin Mừng và trong Truyền Thống phát xuất từ Tin Mừng.

  • Hãy mở sách Tin Mừng ra xem Tin Mừng có nói về Satan không?
  • Có những câu chuyện về những người bị quỷ nhập, về việc trừ quỷ không?
  • Chính Chúa Giêsu có tin ma quỷ không?
  • Và Ngài nói gì về ma quỷ?

CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ

Điểm đầu tiên khiến chúng ta phải lưu ý là việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc. Có ba cuốn Tin Mừng nói về cơn cám dỗ này, cho ta thấy Chúa Giêsu và Satan đối đầu với nhau. Nhưng nên ghi nhớ điều này: không có ai chứng kiến cuộc chạm trán để đời này cả. Nếu không được đích thân Chúa Giêsu kể lại, thì ba tác giả Tin Mừng nhất lãm không thể biết gì về chuyện này. Ngài cũng phải vất vả khi nói cho các môn đệ hiểu được những gì đã xảy ra giữa Ngài và ma quỷ. Ngài muốn ta biết rằng Ngài đã thấy quỷ, có thể nói được là "thấy tận mắt": lúc đó, Satan đã đề nghị với Ngài nhiều việc, muốn Ngài sống dưới ách của nó, muốn Ngài làm trệch hướng! Tóm lại, Chúa Giêsu đã muốn chịu cám dỗ, và Ngài đã chịu cám dỗ thực sự. Ngài đã tỏ lộ cho những kẻ theo Ngài biết cơn cám dỗ ấy thế nào: Satan chỉ cho Ngài thấy thế gian và bảo: "Ta sẽ cho ngươi toàn bộ quyền thế của các nước trên thế giới này; cùng với vinh quang của chúng! Quyền hành đó đã được trao vào tay ta, và ta muốn trao cho ai tuỳ ý! Vậy nếu ngươi thờ lạy ta, thì tất cả những cái đó sẽ thuộc về ngươi!" (Lc 4,5-7)
Chúng ta đừng nghĩ rằng cơn cám dỗ đó quá hạn hẹp. Thực ra, nó bao gồm những chiều kích của mọi người sống trên hành tinh này. Vì thế, Satan nghĩ rằng nó cũng bao gồm cả những chiều kích của Chúa Giêsu nữa.
Còn về phía Chúa Giêsu, ba lần Ngài gọi Satan là "thủ lãnh thế gian này" (Ga 12,27; 14,30,16,11), nghĩa là Ngài cũng đồng ý với Satan trong việc nhìn nhận rằng nó có ưu thế trên mọi nước ở trần gian. Khi nói tới những trình thuật về cơn cám dỗ trong sa mạc, cha Lagrange so sánh nó với những bài "khởi ngôn" trong những bi kịch cổ, trong đó toàn bộ kịch bản sẽ diễn xuất đều được loan báo và ám chỉ trước. Cuộc chiến đấu giữa Chúa Giêsu và Satan là một khởi ngôn thuộc loại này. Nó nói lên tất cả sứ mạng của Chúa Giêsu. Ngài chỉ đến để lật đổ sự thống trị của Satan thôi. Thánh Gioan đã phải nói trong thư thứ nhất của ngài rằng: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá huỷ những việc làm của ma quỷ" (1Ga 3,8). Vì thế, toàn bộ sách Tin Mừng chắc chắn ghi lại đầy đủ những hành động Chúa Kitô đã làm để chống lại Satan, và những hành động Satan đã làm để chống lại Chúa Kitô. Và quả thực là thế! Người ta không thể không ngạc nhiên khi đọc sách Tin Mừng của chúng ta. Nếu không tin chắc chắn rằng Satan đang hiện diện và hành động giữa chúng ta, thì người ta sẽ không thể hiểu gì về những cuốn Tin Mừng.

NHỮNG THÍ DỤ

Nếu kể ra đây tất cả những đoạn Tin Mừng nói tới ma quỷ thì quá dài. Chúng ta chỉ nên kể ra những đoạn chính yếu.
Chúa Giêsu khởi sự rao giảng ở Galilê, và thánh Marcô viết rằng Ngài "đuổi quỷ" (Mc 1,30). Trước khi Ngài giảng bài giảng trên núi, dân chúng qui tụ chung quanh Ngài. Tại sao vậy? Thánh Luca cho chúng ta biết: "để được Ngài chữa bệnh, và tất cả những ai bị thần ô uế dằn vặt đều được chữa lành cả" (Lc 6,18). Vì, như thánh Matthêu nói: "Người ta dẫn đến với Ngài tất cả những ai lâm tình trạng khốn khổ, bị những bệnh tật và đau khổ khác nhau, cả những người bị quỷ nhập, điên dại và bại liệt" (Mt 4,24).
Khi nói tới Maria Mađalêna, thánh Luca nói rõ là nàng được Chúa Giêsu chữa cho khỏi "bảy quỷ" (Lc 8,2). Khi sai các môn đệ rao giảng ở Galilê, Chúa Giêsu ban cho họ quyền năng trên ma quỷ. Khi họ trở về, Ngài nói với họ: "Ta đã thấy Satan từ trời rơi xuống như một ánh chớp" (Lc 10,17-20).
Một hôm Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ mà "quỷ dữ đã khiến cho đau ốm suốt 18 năm". Khi người cai quản nhà hội bất bình với Chúa vì hôm đó là ngày sa-bát, thì Chúa Giêsu trả lời: "Đồ giả hình! Trong ngày sa-bát, há các ngươi chẳng thả bò hay lừa trong chuồng ra dẫn chúng đi uống nước sao? Còn người con gái của Abraham đây, ma quỷ đã cầm buộc suốt 18 năm nay, lại chẳng nên cởi trói cho nó trong ngày sa-bát sao?" (Lc 13,10-17).
Chúng ta hãy nhớ có lần Chúa đuổi bọn quỷ tự xưng là đám đông, vì chúng cư ngụ rất đông ở trong người bị chúng ám đó. "Đám đông" ấy xin Ngài cho phép chúng nhập vào đàn heo. Ngài cho phép, và tất cả đàn heo đều nhảy xuống hồ chết đuối hết (xem cả ba Tin Mừng nhất lãm, nhất là Mc 5,1-20).
Cái nét khôi hài trong trình thuật này khiến người ta hết sức chú ý. Các con quỷ được mô tả hoàn toàn đúng. Người ta cảm nhận được bản chất và tính tình của chúng.
Người ta thấy được "tâm lý" của chúng. Chúng ta lại trở lại vấn đề này: khi chúng nhập vào một người nào thì chúng làm gì? Đức Cha Catherinet viết: "Chúng đặt để và thực hiện ở đó những rối loạn bệnh tật tương tự như bệnh điên. Chúng có một cảm thức nhạy bén và biết Chúa Giêsu là ai. Chúng phủ phục xuống lạy Ngài một cách trơ trẽn, xin xỏ Ngài, cầu khẩn Ngài như cầu khẩn Thiên Chúa, lo sợ bị Ngài ném chúng trở lại "Vực Sâu". Để tránh điều đó, chúng xin được nhập vào đàn heo và cư ngụ ở đó. Vừa mới nhập vào đàn heo thì chúng đã làm hại đàn súc vật đó một cách dữ dằn và độc ác bằng một quyền năng khiến chúng ta ngạc nhiên không kém tính hay thay đổi của chúng".
Trong những trình thuật khác về đuổi quỷ của sách Tin Mừng, chúng ta đều thấy những nét được kể ra sau đây ở nhiều mức độ khác nhau: sợ hãi, khúm núm, quyền năng, bất lương, hay thay đổi và ngay cả tức cười nữa.
Tóm lại, không những người Công giáo, mà ngay cả các sử gia nghiêm chỉnh cũng không thể không nhận thấy rằng: Chúa Giêsu không phải chỉ nói một cách giới hạn như những người đồng thời với Ngài vẫn nói, Ngài không có ý nói hùa theo sự dốt nát và thành kiến của những người chung quanh Ngài, mà thực sự chính Ngài cũng tin rằng Satan hiện diện và hoạt động trong thế gian, Ngài gìn giữ chúng ta chống lại Satan, đến nỗi trong sách Tin Mừng, chỗ nào đọc cũng thấy có Satan. Điều đó khiến chúng ta phải đặt vấn đề, một vấn đề mà chúng ta phải khảo sát một cách hết sức chuyên chú.

TẠI SAO QUÁ NHIỀU TRƯỜNG HỢP BỊ QUỶ NHẬP NHƯ THẾ ?

Các trình thuật về ma quỷ trong sách Tin Mừng có rất nhiều. Ma quỷ được nói đến rất nhiều, đến nỗi người ta phải tự hỏi: như vậy có quá đáng không? Trong đời sống thường nhật, chắc chắn người ta không gặp nhiều người bị quỷ nhập như Chúa Giêsu đã gặp. Các nhà phê bình hiện đại - ít nhất là những người tự hào nhận mình là "phê bình độc lập" - thế nào cũng cho rằng như vậy có vẻ không thật. Theo họ, đa số những người bị quỷ nhập chỉ là những người bị chứng cuồng loạn, những kẻ nửa điên nửa khùng, những kẻ bị chứng thác loạn...
Dẫu thực sự như vậy đi nữa, dẫu khi chữa trị loại "bệnh" này, Chúa Giêsu có dùng khoa y học thời đó đi nữa, thì Ngài cũng rất nổi tiếng vì đã thành công trong tất cả mọi trường hợp, nói vắn tắt là giải cứu những người khốn khổ ấy khỏi căn bệnh của họ, và giúp họ trở về trạng thái bình thường. Nhưng giải quyết vấn đề theo kiểu đó quả thật là quá giản lược, nếu người ta xem xét lại những gì đã nói ở trên. Các bản văn Tin Mừng phân biệt rất rõ ràng giữa những người bị quỷ nhập và những người bị các bệnh khác. Những người bị quỷ nhập có những dấu hiệu rõ rệt chứng tỏ có một thứ trí tuệ khác lạ cư ngụ trong họ. Thứ trí tuệ này lại tỏ ra thù nghịch với Chúa Giêsu và chúng ta gọi nó là thứ trí tuệ của thần ác.
Tiếp theo cái "khởi ngôn" mà chúng ta đã nói tới tầm quan trọng của nó, là việc Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, nếu Satan không can thiệp vào hoạt động của Chúa Giêsu, hay chỉ đóng vai trò phụ thuộc, thì như thế mới có chỗ cho chúng ta ngạc nhiên. Nhưng sự việc không xảy ra như thế. Chúa Giêsu công khai coi mình như "kẻ mạnh" đến để trừ khử nước của Satan trên thế gian. Nói cho đúng thì cuộc chiến đấu này chủ yếu xảy ra trong vô hình, trong địa hạt của ân sủng và tội lỗi. Và cứ như thế cho đến ngày tận thế. Nhưng vì được Thiên Chúa cho phép, cuộc chiến đấu rất vĩ đại và kéo dài từ thế kỉ này sang thế kỷ khác đó cũng thể hiện ra thành những dấu hiệu hữu hình, và để lại cho chúng ta những trình thuật rất ngoạn mục. Nhưng những trình thuật này không phải là cái cốt yếu. Đừng quên điều đó. Dẫu trong tác phẩm này chúng tôi nhấn mạnh tới chúng, thì chúng ta cũng không nên coi chúng quan trọng quá! Điều cốt yếu, đó là số phận các linh hồn, là sự lựa chọn giữa thiên đàng và hoả ngục, giữa tình yêu và hận thù, giữa hạnh phúc vĩnh cửu và án phạt đời đời! Ý định của Thiên Chúa Quan Phòng là cho con người biết ít nhiều về quyền lực của Satan, và quyền lực này xuống trước quyền lực của Đấng Cứu Thế.
Chúng ta hoàn toàn không bị bó buộc tin rằng con số những người bị quỷ nhập mà Tin Mừng đề cập tới tương ứng với một con số trung bình nào đó trong thế giới hồi ấy hay trong thế giới ngày nay. Rất có thể, và cũng rất hợp lý, là chung quanh Chúa Giêsu, những trường hợp đó xảy ra một cách hết sức thường xuyên. Sự kết hợp giữa thần tính và nhân tính tạo nên nhân vị nơi con người Chúa Giêsu, vừa là Con của Loài Người vừa là Con của Thiên Chúa, sự kết hợp đó đã gây ra một đối kháng tương ứng mà Thiên Chúa cho phép, là những biểu hiện của ma quỷ được gia tăng gấp bội và được lặp đi lặp lại. Theo một nghĩa nào đó, hiện tượng quỷ nhập là một phản ứng, một bức hoạt kế đáp trả lại việc nhập thể của Ngôi Lời. Lúc đó, người ngoại giáo và ngay cả người Do Thái giáo trở nên cứng lòng tin đối với thế giới siêu nhiên, và đó cũng là một trong những đặc tính của thời đại chúng ta hiện nay. Việc Chúa Giêsu đến trần gian và rất nhiều trường hợp quỷ nhập xảy ra chung quanh Ngài, là một mạc khải sâu sắc về thế giới siêu nhiên, được thể hiện trên hai bình diện bổ sung lẫn nhau, là Thành của Thiên Chúa và Thành của Satan (Cité de Dieu et Cité de Satan)!
Chính trong chiều hướng này mà chúng ta nói rằng, đối với chúng ta, Tin Mừng rất là chuẩn (normatif). Nó đưa ra những nguyên tắc, chiếu dọi ánh sáng, đặt ra luật lệ, soi sáng cho những thế hệ tương lai bằng một thứ ánh sáng không bao giờ tắt. Tất cả những gì chúng ta biết và tin về ma quỷ đều bắt nguồn từ các cuốn Tin Mừng. Đối với Kitô hữu, sự hiện hữu và tính bất lương của ma quỷ là một tín điều phải tin. Định mạng của chúng ta cũng tương tự như định mạng của các thiên thần hay của ma quỷ. Chúa Giêsu nói:Chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa như các thiên thần đang thấy, hoặc chúng ta sẽ bị chúc dữ như Satan và đồng bọn của nó.
Cần phải nói và nhắc lại tất cả các điều đó trước khi chúng ta trở về với những sự kiện đương thời về chuyện đó. Và để đi từ Phúc Âm tới những dữ kiện của thời đại, chỉ cần một khoảnh khắc nhanh chóng!
Một cách tổng quát, chúng ta phải coi chừng hai nguy hiểm này: một là đặt quá nặng về vấn đề ma quỷ, hai là đặt quá nhẹ, coi nó như không có. Có những thế kỷ chỗ nào người ta cũng thấy có ma quỷ, rồi lại có những thế kỷ người ta không còn muốn thấy ma quỷ ở đâu nữa. Hai thái cực này đều sai lầm như nhau, dối trá như nhau, do đó đều phát xuất từ Satan, là cha đẻ của mọi sự dối trá.

THỜI THƯỢNG CỔ

Không thể nói rằng những Kitô hữu nguyên thuỷ bị ám ảnh về những tác động của ma quỷ. Chúng ta có thể trưng dẫn những đoạn văn của Phêrô và Phaolô, những đoạn văn luôn luôn thức thời mà chúng ta phải coi là sát với thực tế. Chúng ta phải chiến đấu với ma quỷ. Đời sống luân lý chỉ là một cuộc chiến đấu. Có một cái gì khác hơn là thịt và máu. Con rồng (tượng trưng cho ma quỷ) vẫn luôn luôn hoạt động. Trong sách Khải huyền, thánh Gioan đã nói tất cả những gì phải nói về sự biến thiên, thăng trầm của lịch sử Kitô giáo. Nhưng chắc chắn rằng "con rồng" đóng một vai trò quan trọng hàng đầu. Những thời bị bách hại xảy ra rất nhiều lần trong lịch sử Giáo Hội, chắc chắn là do ma quỷ. Mặt khác, chắc chắn rằng các Kitô hữu đầu tiên coi việc thờ phượng các tượng thần của ngoại giáo là thờ phượng ma quỷ. Những thần ngoại giáo dưới con mắt của họ đều là ma quỷ.
Tuy vậy, khi bàn tới tất cả những điều đó, chúng ta không cho rằng các Giáo phụ đã từng nói quá đáng. Thánh Augustino đã thấy rõ hai thành trì. Ngài đã mô tả hai thành trì đó một cách rõ ràng, quả quyết, với một nhãn quan rộng lớn của một thiên tài về tâm linh.
Đôi khi ta thấy ngài bi quan, nhưng bi quan về một lý do hoàn toàn khác không phải vì nhãn quan thần học của ngài về ma quỷ. Ngài không chỉ quy cho ma quỷ tất cả những gì là đen tối trong hành động của con người. Chúng ta cũng có phần trách nhiệm trong đó. Trái lại, chúng ta nghe thánh nhân xác nhận về ma quỷ rằng "con chó đã bị xiềng lại" - chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau. Ma quỷ không thể làm gì chống lại chúng ta mà không do chúng ta. Chính vì chúng ta đồng ý mà ma quỷ mới có sức mạnh. Chính vì chúng ta chống lại mà ma quỷ trở thành yếu đuối.
Những câu chuyện quỷ quái nhất từ thời xa xưa của Kitô giáo mà chúng ta nghe kể đều xuất phát từ những câu chuyện của các Giáo phụ trong sa mạc. Thánh Antôn đã đánh nhau xáp lá cà với ma quỷ. Những vị ẩn tu ở Thébaide, các tu sĩ thuộc mọi dòng tu và mọi thời đại đều có chuyện lôi thôi với Satan. Ở dòng chúng tôi có thánh Martin, ngài có ít nhiều kinh nghiệm về ma quỷ. Tuy nhiên, chúng ta có thể liếc mắt qua những trang sử thời Trung Cổ, lật giở những trang sách của các nhà thần học kinh viện cỡ lớn để tìm hiểu về ma quỷ, mà khỏi phải sợ thấy ma quỷ hiện lên. Các tác giả đặc biệt nghiên cứu về văn chương thời Trung Cổ liên quan tới những hiện tượng quỷ nhập hay những trò ma thuật đều cho rằng: Những bậc đại sư - như Albertô Cả, Tôma Aquinô, Duns Scot - có khuynh hướng bác bỏ những phép lạ mạo danh của các thầy phù thủy. Rồi vào thế kỷ XV, Gerson và triết gia cuối cùng theo chủ nghĩa duy danh là Gabriel Biel đã chống đối nhau: người trước thì xác nhận, người sau thì phủ nhận quyền năng của ma quỷ trên trần gian này.

MỘT KHÚC QUANH NGUY HIỂM

Năm 1486, một tác phẩm được viết nhằm gây một ảnh hưởng rộng lớn đã hướng dẫn cả một thế kỷ đến những cực đoan rõ rệt và thảm khốc nhất.
Đó là cuốn Malleus maleficarum (cái búa của các Thầy phù thủy) do hai tu sĩ dòng Đa Minh người Đức viết: Jacques Sprenger và Henri Institoris, ông trước làm giáo sư ở đại học Cologne, ông sau làm pháp quan (inquisiteur) ở Thượng du nước Đức. Tác phẩm được phổ biến rất nhanh chóng. Trong hai thế kỷ XV và XVI, cuốn sách được xuất bản 28 lần. Đó là cẩm nang về Cách trừ quỷ của các phù thủy. Và tác phẩm này đã làm lay chuyển toàn bộ nền văn chương nói về chuyện ma quỷ thời đó. Không thể kể hết được tựa của những tác phẩm được xuất bản dành cho các vị pháp quan và các vị giải tội sử dụng vào thế kỷ XVI. Những tác phẩm này chỉ bàn đến những chuyện ma thuật và những giao ước kí kết với ma quỷ. Vào đầu thế kỷ XVII, các tác phẩm loại này tràn ngập thị trường. Trong đó, người ta nói về hiện tượng quỷ nhập với những chi tiết rùng mình ghê sợ, về những yêu quái, ma cà rồng, yêu tinh, những vị thần quen thuộc... Năm 1603, một tác giả là Jourdain Guibelet xuất bản cuốn Luận về triết học (discours philosophique). Cái tựa hấp dẫn của cuốn sách chỉ dùng để che dấu ở bên trong một khảo luận về các loại quỷ dâm dục, nghĩa là về các quan hệ xác thịt với ma quỷ.
Thư viện của Yves Plessis chỉ gồm toàn những tác phẩm của Pháp bàn về hành động của ma quỷ, không dưới hai cuốn. Thời đó, dư luận quần chúng có xu hướng coi bệnh tật nào về thể xác con người cũng đều có ma quỷ trong đó cả. Émile Brouette, trong cuốn Satan của bộ sách Études carmélitaines (những nghiên cứu của các tu sĩ Cát Minh, trang 363) đã trích dẫn những hàng chữ này của một tác giả nổi tiếng là Ambroise Paré: "Tôi cho thuốc, còn Thiên Chúa chữa lành", "Tôi nói với Hipprocate là cha đẻ của y khoa rằng: trong các bệnh tật, có một cái gì thần thánh mà con người không cắt nghĩa được... Có những tay phù thủy, những tay chế thuốc độc, những tay đầu độc người khác một cách độc ác, quỷ quyệt, lừa đảo, tạo may mắn cho mình bằng những giao ước kí kết với ma quỷ. Ma quỷ sẵn sàng phục vụ họ, giúp họ phá hoại thân thể, trí tuệ, mạng sống và sức khoẻ của con người và những tạo vật khác bằng những phương tiện tinh vi, ma quái và bí hiểm".

NHỮNG TƯỞNG TƯỢNG THIẾU LÀNH MẠNH

Có thể nói rằng vào thế kỷ XVI, đã phát sinh ra một trào lưu tưởng tượng thiếu lành mạnh về ma quỷ. Chỗ nào người ta cũng thấy có ma quỷ. Người ta tưởng tượng ra ma quỷ phá phách đủ kiểu đủ cách. Cuộc bút chiến của đạo Tin Lành vừa được thành lập chống lại Công giáo chủ yếu nói về ma quỷ. Ngay từ đầu, tổ chức tự xưng là Giáo Hội Tin Lành Cải cách cứ bị ám ảnh về những chuyện ma quỷ. Nếu trước thời Luther và Calvin người ta đã bắt đầu truy lùng các tay hành nghề phù thủy, thì hai ông này không những đã không làm gì để ngăn cuộc truy lùng đó lại, mà còn dựa vào Thánh Kinh, vào Cựu Ước và Tân Ước để cho phép và khuyến khích các cuộc truy lùng đó. Ông Brouette viết: "Luther, Mélanchton và Calvin tin vào những chuyện ma quái. Còn đồ đệ của họ, là những tay giảng đạo cuồng tín, chỉ làm cho những người trở lại với Phúc Âm đã dễ tin lại càng dễ tin hơn vào những chuyện ma quái đó" (Sách đã dẫn, trang 367)

NHỮNG CON SỐ KINH HOÀNG

Ông Brouette đã đưa ra những con số không thể tin được về số lượng những vụ án ma thuật. Quả thật ông ta đã "hết sức thận trọng và vì ích lợi cho mọi người" khi đưa ra những con số này. Ông nói:

"N. Van Werveke thẩm định có 30 ngàn vụ án được đem ra xử trước các toà án ở Luxembourg. L. Raiponce, trong cuốn Essai sur la Sorcellerie (Khảo sát về ma thuật, trang 64), có đưa ra một con số vừa phải hơn, ông cho rằng có 50 ngàn vụ hành quyết trong nước Đức, Bỉ, Pháp. A. Louandre trong cuốn La Sorcellerie (Ma thuật) viết rằng vào thế kỷ XVI, tại Lorraine, trong vòng 15 năm, có 900 người hành nghề phù thuỷ bị hành quyết; tại Genève năm 1515, trong ba tháng, có 500 người; tại giáo phận Côme, trong vòng 1 năm, có 1000 người. Theo J. Francais thì tại Strasbourg, trong 3 năm, có 25 vụ ma thuật bị xử thiêu. Theo G. Save, trong cuốn La Sorcellerie à Saint Dié (Ma thuật ở Saint Dié), từ năm 1530 đến 1629, tổng số những vụ kiện cáo chống ma thuật tại quận Saint Dié lên tới 230 vụ. Theo C.E. Dumont, trong cuốn Justice criminelle des Duchés de Lorraine (Những vụ án hình sự tại các quận vùng Lorraine) quyển 2 trang 48, từ năm 1553 đến 1669, có 740 vụ án. Nếu có một cuốn danh mục ghi lại đầy đủ các vụ án về ma thuật, thì chắc chắn nó phải là một tác phẩm đọc "mệt nghỉ".

Trái với dư luận được các sử gia nổi tiếng nhất tin tưởng thời đó, sự thực không phải là tới cuối thế kỷ XVI, việc đàn áp ma thuật mới lên đến cực điểm. Các vụ trấn áp này tới thế kỷ XIV còn rất hiếm, có lên cao là ở thế kỷ XV. Các vụ án rầm rộ lên nhiều từ năm 1530, nghĩa là trong tiền bán thế kỷ XVI. Nửa thế kỷ đầu cũng đổ máu nhiều như nửa thế kỷ sau, chúng tôi muốn nói từ năm 1580 đến 1620 là dữ tợn nhất.
Có lẽ người ta không thể sai lầm nhiều lắm khi cho rằng phần lớn việc phát sinh thứ văn chương nói về ma quỷ được bộc phát rõ ràng sau năm 1530 là do Luther và giáo phái Tin Lành. Đó là ý kiến của Đức Cha Janssens trong cuốn La Civilisation en Allemagne (Nền văn minh ở nước Đức) bộ lịch sử vĩ đại của Ngài. Ngài viết: "Thời đó, một loại văn chương chuyên nói về ma quỷ rất đa dạng và cũng rất quan trọng phát triển. Tại Đức, hầu như nó chỉ bắt nguồn từ giáo phái Tin Lành, và nó phù hợp từng điểm một với giáo huấn của Luther và giáo phái của ông".

LUTHER VÀ MA QUỶ

Chắc chắn trong toàn bộ giáo thuyết của Luther, ông đã gán cho ma quỷ một vai trò quan trọng hơn rất nhiều so với vai trò mà người ta đã gán cho ma quỷ trước thời của ông. Ông tự nhận ông có những bằng chứng cá nhân về việc làm của ma quỷ. Phải, chính ông đã thấy Satan. Ông quả quyết như vậy với bất cứ ai. Ông viết:

"Satan thường hiện ra dưới một lốt giả trang. Chính tôi tận mắt thấy nó hiện dưới lốt một con heo, một bó rơm đang cháy,...".

Ông kể lại cho bạn ông là Myconius rằng: vào năm 1521, tại Wartburg, ma quỷ đến gặp ông định giết ông, và ông thường gặp nó trong vườn dưới lốt một con heo rừng màu đen. Năm 1530, tại Coburg, vào một đêm kia, ông nhận ra nó dưới hình một ngôi sao. Ông viết:

"Nó đi dạo với tôi trong phòng ngủ và giao cho hai con quỷ trách nhiệm canh chừng tôi... Đó là những con quỷ pháp quan".

Ông thuật lại chi tiết những cuộc nói chuyện của ông với quỷ. Ông kể những trường hợp "rất xác thực" Satan mưu hại người ta, do bạn bè ông kể lại cho ông. Tại Sessen, có ba người đầy tớ bị quỷ bắt sống đem đi: trên đường đi, Satan đã vặn cổ ông chủ quán trọ và đã đem một tên lính lên trên không. Tại Muhlberg, một người say rượu đang chơi sáo cũng bị như thế. Tại Eisenach, một người chơi sáo khác cũng bị quỷ đem đi, dẫu mục sư Justus Menius và nhiều thầy truyền đạo khác thường xuyên canh chừng và giữ cẩn thận các cửa ra vào cũng như các cửa sổ của căn nhà mà nạn nhân đang ở. Người ta tìm lại được xác của người chơi sáo thứ nhất trên một dòng suối, và xác của người thứ hai trong một bụi cây phỉ (noisetier). Luther xác nhận tất cả những sự kiện trên một cách trang trọng. Ông nói:

"Đó không phải là những chuyện trên mây trên gió, được bịa ra để cho người ta sợ đâu, cũng không phải là những chuyện trẻ con như những người ham được khen là thông thái chủ trương, mà là những dữ kiện có thực, đã thực sự gây kinh hoàng cho nhiều người". Ông còn nói: "Những con quỷ bị thất bại, bị xỉ nhục, bị đánh đập đã trở thành những con yêu tinh, vì có những con quỷ bị thoái hóa, và tôi có xu hướng tin rằng những con quỷ chính là những con quỷ thoái hoá ấy".

Ông ta có vẻ ưng ý với điều ông ta vừa phỏng đoán, vì ông cứ nhấn mạnh điều đó. Ông nói:

"Loài rắn và loài khỉ ưa bị ma quỷ nhập hơn những loài khác. Satan ngự trong những con vật đó. Nó nhập vào chúng và dùng chúng để gạ gẫm con người, và nhất là để làm hại con người. Ma quỷ cư ngụ ở rất nhiều quốc gia, nhưng đặc biệt nhiều hơn ở nước Phổ. Ở Laponie cũng có rất nhiều quỷ và các nhà ma thuật. Tại Thuỵ Sĩ, cách Lucerne không xa, trên một ngọn núi rất cao, có một cái hồ gọi là "hồ Philatô": ở đó, ma quỷ làm đủ mọi thứ xấu xa ô uế. Trong xứ của tôi, có một ngọn núi cao gọi là Polsterberg - là núi của quỷ - trên đó, có một cái hồ, khi có người ném xuống đó một viên đá nhỏ, thì lập tức có một cơn bão nổi lên, và cả vùng chung quanh đều bị tàn phá. Hồ này đầy dẫy ma quỷ: Satan đã giam giữ chúng ở đó" (tất cả những bản văn này được Đức Cha Janssens trích dẫn trong tác phẩm đã nêu trên, cuốn 4, trang 433).

Luther nói như vậy không phải trong những lá thư riêng tư của ông, hay trong những câu chuyện khi ăn cơm. Ngay trong những bài ông giảng, những điều nói về ma quỷ có một chỗ đứng quan trọng. Năm 1520, khi chưa hoàn toàn tách ra khỏi truyền thống Công giáo, ông đã tuyên bố rằng: khi ma quỷ và những người tội lỗi phạm tội về điều răn thứ nhất là họ tự chuốc lấy sự thất bại trong các công việc mình thực hiện, và chuốc lấy bất hạnh cho định mạng của mình. Nhưng về sau ông thấy chỗ nào, việc nào cũng có ma quỷ nhúng tay vào. Trong bộ Grand Catéchisme (Giáo lý yếu lược) của ông xuất bản năm 1529 bao gồm những ý niệm quen thuộc nhất của ông, ông dạy rõ ràng rằng chính ma quỷ xui khiến người ta gây lộn, ám sát nhau, gây mầm phản loạn, chiến tranh, và những tai hại có tính cách lâu dài như chúng ta sẽ nói đến sau này. Và cũng chính nó gây ra sấm sét, bão bùng, mưa đá khiến cho mùa màng bị tổn thất, súc vật bị chết và không khí bị nhiễm độc. Như thế thì không biết ông ta sẽ nói sao khi thấy những chiếc xe hơi thời nay nhả khói làm ô nhiễm môi sinh thành phố?
Luther viết:

"Ma quỷ không ngừng đe doạ đời sống của các Kitô hữu. Nó thích chí đổ xuống trên họ đủ mọi thứ đau khổ và tai hoạ để phá họ. Vì thế, biết bao nhiêu người đã chết một cách đau khổ: người bị cắt cổ, người mắc chứng điên loạn. Chính chúng ném con nít xuống sông, chúng khiến cho người té ngã có thể chết được".

Ông cho rằng quyền hạn của ma quỷ rất lớn. Ông viết:

"Ma quỷ rất tài tình, chỉ cần một lá cây là nó có thể làm người ta chết được. Nó có nhiều thứ thuốc, nhiều loại độc dược hơn tất cả thuốc của các nhà bào chế trên thế giới hợp lại. Ma quỷ không ngừng đe doạ đời sống con người bằng những phương tiện riêng của nó, chính ma quỷ làm không khí trở nên độc hại".

Đó không phải là những bản văn riêng lẻ hay ít gặp trong tác phẩm của Luther. Người ta đọc thấy nhiều quả quyết khó tin do ngòi bút ông viết ra. Chẳng hạn, ông chắc chắn rằng có những thiếu nữ bị ma quỷ lạm dụng khiến cho có thai vì tác động của nó, và những đứa trẻ được sinh ra do sự kết hợp ô trọc này là con của ma quỷ, chúng không có linh hồn. Theo ông, chúng chỉ là những "đống thịt", và ông đưa ra lý lẽ không thể chối cãi là "ma quỷ có thể tạo dựng một thân xác, nhưng không thể tạo nên linh hồn cho thể xác ấy được. Vì thế, linh hồn của những đứa trẻ ấy chính là Satan!" Và ông kết luận một cách giáo điều rằng:

"Chẳng phải thật khủng khiếp và ghê tởm khi nghĩ rằng Satan có thể làm cho người ta đau khổ như thế, và chúng có quyền năng sinh ra những em bé đó sao? (Tác phẩm đã dẫn, trang 436, của Đức Cha Janssens)

ẢNH HƯỞNG CỦA LUTHER

Chắc chắn rằng đối với Giáo hội Tin Lành cũng như các tác giả của Giáo phái Tin Lành, những quả quyết của một người có uy tín như thế được lập đi lập lại một cách trang trọng như thế thì không thể nào không có ảnh hưởng. Trong hầu hết các bài giảng của hàng giáo sĩ Tin Lành, những câu chuyện về ma quỷ đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Văn chương bình dân bị tràn ngập bởi vô số những câu chuyện về ma quỷ.
Một tay bút chiến Công giáo người Đức, Jean Has, đã bất bình về việc các sách bàn về ma quỷ được viết ra quá nhiều. Năm 1588, ông viết:

"Trong có mấy năm mà người ta đã xuất bản và phổ biến vô số sách về ma quỷ, những cuốn sách đó được viết nhân danh ma quỷ, được in ra nhân danh ma quỷ, được bán và được đọc một cách thích thú nhân danh ma quỷ: người ta coi trọng những sách đó, và các tác giả những cuốn sách đó lại nổi tiếng trong số tất cả những người tự xưng là rao giảng Lời Chúa!".

Ông viết thêm:

"Ngày xưa, các Kitô hữu đạo đức cấm con cái của mình không được kêu tên thần Ác, thậm chí không được ám chỉ ma quỷ bằng những biệt danh của nó. Theo lời của Salomon thì không được lấy danh ma quỷ mà thề thốt: 'Khi một người tội lỗi nhân danh ma quỷ mà nguyền rủa ai, thì họ đã tự nguyền rủa chính linh hồn mình'. Thế mà hiện nay, người ta rao giảng về ma quỷ, người ta viết sách nhân danh ma quỷ, và coi việc làm đó là đúng và đáng khen. Tôi có thể nói đúng cái lý do của sự việc đó cho các bạn: ông ta chính là ông tổ của 'các nhà rao giảng Tin Mừng' của chúng ta, chính 'thánh tổ phụ' Martin Luther đã đầu tiên nêu gương đó".

Năm 1595, một "tổng giám sự", nghĩa là một giám mục giáo phái Luther, là Ándre Célichius, đã xuất bản một khảo luận trọn bộ nói về Hiện tượng quỷ nhập để biện minh cho sự việc đó. Bằng những lời lẽ sau đây, ông tuyên bố rằng ông coi cuốn sách của ông là cần thiết:

"Hầu như khắp nơi, xa cũng như gần chúng ta, số người bị quỷ nhập nhiều đến độ người ta phải ngạc nhiên và lo sợ, có thể đó là một tai ương thực sự giáng xuống quốc gia của chúng ta và tất cả mọi người sống trong đó - giống như nước Ai Cập xưa - vì đã bị kết án phải hư mất!"

Ông ta thẩm định rằng tại xứ sở của ông ta, là Mecklembourg, có ít nhất 30 người bị "quỷ nhập" đang gieo sợ hãi và kinh hoàng ở khắp nơi! Ông viết:

"Những người yếu đuối và nhút nhát, các phụ nữ và thiếu nữ hết sức bối rối vì tất cả những gì họ phải thấy và nghe một cách miễn cưỡng. Rất nhiều người từ chối đức tin và đức ái vì họ đã nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, nó dụ họ sống phản đạo và thờ lạy hình tượng..."

Và ông đã dành nhiều chương dài để mô tả sự tàn phá của ma quỷ vào thế kỷ ông đang sống!
Thôi, chúng ta hãy ngưng những kỷ niệm đáng buồn ấy tại đây. Vào thời đại của chúng ta, những chuyện quá đáng ấy chắc chắn không thể xảy ra nữa. Đã tới lúc phải tìm hiểu những dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Satan trong thế giới hiện nay. Về vấn đề này, trước tiên chúng ta sẽ bàn tới những gì xảy ra ở nước Pháp vào thế kỷ XIX liên quan tới ma quỷ.
Có thể kể một cách nghiêm chỉnh không bịa đặt những "câu chuyện về ma quỷ" của thời đại gần với chúng ta như thế không? Chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi trên bằng những gì chắc chắn, đồng thời tránh tất cả những gì là quá lố.

CHƯƠNG I
MA QUỶ QUẤY NHIỄU
THÁNH GIOAN MARIA VIANNÂY

NHỮNG ĐỢT TẤN CÔNG ĐẦU TIÊN CỦA MA QUỶ

Khi tới làm cha sở họ đạo Ars, cha Gioan Viannây được 32 tuổi. Họ đạo nhỏ bé này rất nghèo nàn, rất hiu quạnh mà cũng rất khô khan. Còn ngài thì bị tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn thiêu đốt, dằn vặt. Trước tình trạng của họ đạo như thế, ngài chỉ biết cầu nguyện và ăn chay. Ngày đầu ngài ăn chay cầu nguyện thế nào, thì ngài cũng cầu nguyện ăn chay suốt cuộc đời như vậy. Vì thế, trong kinh cầu nguyện ngày lễ kính ngài, Giáo Hội đã ca tụng ngài là một người cầu nguyện không biết mệt, đồng thời thống hối liên tục. Hằng ngày ngài cầu nguyện và hãm mình không ngừng là để xin Thiên Chúa ban cho họ đạo của ngài biết quay trở về với Chúa.

Nếu thực sự có những kẻ thù của các linh hồn mà chúng ta gọi là ma quỷ, thì chắc chắn chúng phải biết những khát vọng lớn lao của vị linh mục trẻ tuổi ấy từ lâu. Và chắc chắn không tránh được việc chúng muốn vô hiệu hoá những cố gắng của ngài. Ngay từ bài giảng đầu tiên ở nhà thờ, vị linh mục trẻ này đã thẳng thắn lên tiếng chống lại những tật xấu, những lộn xộn đang làm cho xứ đạo của ngài hư hỏng: là khiêu vũ và say rượu. Đương nhiên bài giảng của ngài làm cho nhiều người bị tổn thương về quyền lợi khiến họ đứng lên chống lại ngài: các chủ quán rượu, các khách khứa tới uống rượu, những người hay lui tới vũ trường, những người lạm dụng ngày chủ nhật để làm bậy, họ cảm thấy những đam mê, thói hư tật xấu, và những ham muốn xác thịt của họ đang bị đụng chạm, bị bài xích. Nhưng trong họ đạo của ngài, người ta thấy ngài thật nhân từ, hiền lành, thật thánh thiện, sốt sắng, đến nỗi họ đã coi ngài như một vị thánh sống.

Tuy nhiên, những thanh niên đàng điếm, du đãng gần đó, nhưng không thuộc họ đạo của ngài, không ngần ngại chống lại ngài, vu khống cho ngài những gì xấu xa nhất. Ngài sống giống như một thiên thần: để chế ngự xác thịt, để bắt xác thịt trở thành nô lệ ngoan ngoãn của tinh thần, và để thông hiệp với những đau khổ của Chúa Cứu Thế trên thập giá, ngày nào ngài cũng ăn chay đánh tội, nên thân thể ngài xanh xao, gương mặt ngài hốc hác, và họ đã cả gan giải thích đó là do ngài đã bí mật ăn chơi trác táng. Người ta đã đặt ra những câu hát thô bỉ để nhạo cười ngài, đã gửi cho ngài những lá thư nặc danh để chửi rủa ngài, dán vào cửa nhà ngài những tờ giấy nhục mạ ngài.
Bà Cathérine Lassagne, là nhân chứng sống gần ngài liên tục và lâu nhất, biết rõ những đức hạnh của ngài nhất, đã viết: "Vào thời đó, ngài bị vu khống và khinh bỉ. Người ta tới la hét om sòm vào cửa sổ nhà ngài...".

Dẫu không muốn quy toàn bộ thủ đoạn này cho một mình ma quỷ, chúng ta cũng cứ theo dõi cuộc tấn công đầu tiên của nó chống lại một tông đồ nhiệt thành như ngài, nhằm phá hoại danh dự và tiếng tăm của ngài một cách hèn hạ và kinh tởm. Chỉ một chút xíu nữa là cuộc tấn công đó có thể đi đến thành công! Trong vụ án điều tra phong thánh, một nhân chứng nói: "Ngài quá mệt mỏi và chán nản vì những tiếng đồn quái ác xấu xa mà người ta dám tung ra về ngài, đến nỗi ngài muốn bỏ họ đạo của ngài để trốn đi. Nếu không có một người ở gần ngài thuyết phục ngài rằng, việc ngài bỏ đi sẽ làm cho người ta tin những lời đồn đại ấy là đúng, thì ngài đã bỏ trốn rồi".

Vậy thì ngài phải làm gì đây? Phó thác mọi sự cho Thiên Chúa, tiếp tục cầu nguyện hãm mình, nhất là cầu nguyện cho những kẻ bách hại ngài. Ngài cứ làm như thế, và đó là chiến thắng đầu tiên của ngài trên Satan.

CÁM DỖ GHÊ GỚM

Tuy nhiên, ma quỷ không chịu thua. Nó lại tiếp tục tấn công ngài. Lần này, nó tấn công trực tiếp đối thủ của nó. Chính vì ngài hãm mình ép xác, nên sức khoẻ của ngài ngày một suy giảm. Ngài là con trai của một nông dân, nên có một thể chất bự con, khoẻ mạnh. Thế mà trong những năm đầu tiên phục vụ tại Ars, ngài bị một cơn bệnh khá nặng. Cơn bệnh đó chắc chắn là kết quả của cái mà về sau ngài gọi là "sự điên khùng của tuổi trẻ", nghĩa là sự ăn chay hãm mình mà ngài tự ép buộc mình làm khi sống một mình trong nhà xứ, và chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được. Khi bị bệnh, ngài bắt đầu có những tư tưởng chán nản và thất vọng. Ngài chắc rằng mình chết đến nơi rồi. Nhiều lần ngài nghe thấy giọng nói xấc xược dường như phát xuất tự đáy lòng ngài nói với ngài: "Bây giờ chính là lúc mi phải sa hoả ngục!". Sở dĩ ta biết được những điều đó là do ngài kể lại, và do những nhân chứng đã cung khai trước toà án phong thánh, nhất là do Cathérine Lassagne mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên.

Tuy nhiên, đức tin nơi đáy tâm hồn ngài vẫn rất mãnh liệt, ngài vẫn trông cậy vào Chúa, nhờ đó, ngài mau chóng tìm lại được bình an nội tâm tưởng chừng như đã mất.

Đọc tới đây, chúng ta phải công nhận rằng cha sở trẻ này đã giữ được nét tinh tuý nhất của chức vụ tông đồ, ngài đã chứng tỏ được ngài có lương tri, có khôn ngoan về mặt tâm linh, có sức mạnh, và có bản lĩnh tinh thần.

Những vu khống, những cám dỗ là những phương pháp chung, là những phương pháp thông thường mà ma quỷ dùng để can thiệp vào định mệnh của con người, mà chúng ta chưa thoát ra khỏi được.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy nói tới những quấy nhiễu của ma quỷ, là một cái gì khác hẳn những cái trên, mà chúng ta sắp thấy sau đây.

NHỮNG TRÒ CHƠI CỦA SATAN

Trong cuộc chiến đấu của Satan chống lại cha sở họ Ars, có sự leo thang rất dễ thấy. Những gì xảy đến cho ông Gióp cách đây hàng chục thế kỷ dường như cũng xảy đến y hệt cho ngài. Những cơn cám dỗ được chuyển thành những quấy nhiễu phá phách. Thiên Chúa là ông chủ tối thượng định đoạt vận mệnh chúng ta, đã cho ma quỷ được phép đi quá giới hạn mà chúng ta vẫn thường ấn định theo quan niệm của chúng ta. Nên nhớ rằng thánh Augustinô đã nói: "'con chó bị xiềng' đó không thể cắn được ai."

Những cái xiềng này có thể được nới lỏng ra một chút do Thiên Chúa cho phép. Việc đó đã khởi sự xảy ra cho cha sở Viannây suốt mùa đông cuối năm 1824 đến đầu năm 1825. Lúc đó ngài làm cha sở họ Ars được sáu năm, và ngài được 38 tuổi. Những hiện tượng kì cục đó luôn luôn xảy ra vào ban đêm. Những tiếng động gây bất an khiến ngài không ngủ được. Ngài không hề sợ hãi, mới đầu ngài tưởng rằng đó là những con chuột vẫn cắn xé những tấm màn ở giường của ngài. Vì thế, ngài lấy một cây gậy ở đầu giường để đuổi chúng đi. Nhưng vô ích, càng đập vào màn để đuổi chuột đi, thì càng nghe thấy tiếng chúng nghiến răng. Thế mà sáng dậy coi lại màn thì không thấy có một dấu hiệu nào chứng tỏ có chuột cắn xé cả. Tuy nhiên, ngài không hề nghĩ những tiếng động đó là do ma quỷ gây ra. Theo cha Toccanier, một linh mục được sai đến phụ tá ngài sau này, thì "ngài không phải là người dễ tin, vì ngài rất khó tin vào những chuyện dị thường". Nhưng rồi ngài cũng phải tin rằng đó là do ma quỷ làm, như chúng ta sẽ đọc thấy sau đây.

Đức Cha Saudreau, một Giám mục rất có uy tín trong những chuyện thần bí về Thiên Chúa cũng như về ma quỷ, là một tác giả mà sau này chúng tôi sẽ phải trích dẫn nhiều đoạn văn, ngài viết một cách rõ ràng:

"Ma quỷ tác động lên mọi người bằng cách cám dỗ họ... Không ai thoát khỏi những cuộc tấn công của nó: đó là công việc thường xuyên của nó. Đôi khi ma quỷ biểu lộ sự hiện diện của chúng qua những quấy nhiễu khó chịu, để làm cho người ta sợ hơn là để gây nguy hiểm cho người ta. Chúng gây tiếng động, lay chuyển, dời chỗ, đảo lộn và đôi khi làm đổ bể một vài đồ vật nào đó. Người ta gọi đấy là ma quỷ quấy nhiễu".

Cũng có thể là Đức Cha Saudreau đã từng mắt thấy tai nghe y hệt những kinh nghiệm của cha sở họ Ars, chứ chắc chắn không phải chúng chỉ xảy ra trong trí của ngài đâu.

Chúng ta sẽ thấy, Satan, được Thiên Chúa cho phép, sẽ tiến tới mạnh dạn hơn chút nữa. Vì thế, trong những đêm tĩnh mịch, cha Viannây nghe thấy có những tiếng đập ngoài cửa, có những tiếng la hét lạ tai vọng tới nhà xứ. Cha Viannây không hề nghĩ tới đó là do ma quỷ, mà chỉ đơn giản nghĩ rằng có lẽ đó là kẻ trộm đang bị cám dỗ vì những vật dụng trang trí và những đồ vật rất đẹp và quí giá mà ông xã trưởng ở Ars đã cung hiến cho nhà thờ. Vì thế, ngài trỗi dậy, đi xuống dưới cái sân nhỏ, nhìn quanh quất khắp nơi, dòm ngó trong các góc kẹt, các xó xỉnh. Ngài không thấy gì cả! Ngài chưa hiểu có chuyện gì. Ngài quyết định tới cầu cứu một người nào đó trong họ đạo để đề phòng những kẻ tấn công mà ngài chưa thấy được đang đe doạ ngài.

MỘT NHÂN CHỨNG TƯỜNG THUẬT

Thời đó, năm 1826, người thợ đóng xe trong làng là một chàng trai 28 tuổi khoẻ mạnh, đã sống tại đó khá lâu để có thể làm chứng cung khai trước toà án phong thánh. Anh tên là André Verchère. Chúng ta hãy đọc qua lời khai của anh lần đầu tiên vào ngày 4.6.1864 và lần thứ hai ngày 2.10.1876, được khai sau khi thề nói đúng sự thật. Anh nói:

Đã nhiều ngày rồi, cha Viannây nghe thấy có những tiếng động lạ thường trong nhà xứ. Một buổi tối, ngài đến tìm tôi và nói: "Cha không biết đó có phải kẻ trộm không... Con có thể đến ngủ ở nhà xứ với cha được không?"

_ Thưa cha, con rất sẵn lòng. Con sẽ đem cây súng theo.

Đêm đến, tôi lại nhà xứ. Tôi vừa sưởi ấm vừa nói chuyện với cha sở cho tới mười giờ. Cuối cùng cha nói: "Thôi, chúng ta đi ngủ nhé!" Cha nhường cho tôi phòng ngủ của cha, còn cha thì ngủ ở phòng bên cạnh. Tôi không ngủ được. Vào khoảng 1 giờ sáng, tôi nghe thấy có tiếng lay động dữ dội ở cánh cửa bước ra sân. Cùng một lúc vang dội lên những tiếng chuỳ đập vào cánh cửa ấy, đang trong khi nhà xứ có những tiếng rầm rầm như tiếng của nhiều chiếc xe chạy.

Tôi cầm khẩu súng lao về phía cửa sổ và mở ra. Tôi nhìn ra mà chẳng thấy gì cả. Căn nhà rung lên trong vòng 15 phút. Hai chân tôi cũng rung lên như vậy, và tôi còn cảm thấy như vậy suốt 8 ngày. Ngay khi có tiếng động bắt đầu, cha sở đốt đèn lên. Cha đến với tôi và hỏi:
_ Con có nghe thấy không?
_ Con nghe chứ! Cha thấy đó, vì con đã đứng dậy cầm súng mà!
Nhà xứ rung động y như có động đất. Cha sở còn hỏi:
_ Con có sợ không?
_ Không, tôi đáp, con không sợ, nhưng con cảm thấy như chân con muốn khuỵu xuống. Nhà xứ chắc sập mất!
_ Con nghĩ chuyện gì đang xảy ra vậy?
_ Con nghĩ rằng đây là do ma quỷ!
Khi mọi tiếng động chấm dứt, chúng tôi đi ngủ lại. Tối hôm sau, cha sở lại đến yêu cầu tôi trở lại ngủ với cha. Tôi trả lời:
_ Thưa cha, con ngán quá cha ạ!

Chính cha sở đã xác nhận sự kiện này, tại trường Chúa Quan Phòng, một cơ sở bác ái do ngài sáng lập, ngài đã kể lại người đầu tiên tới giữ nhà xứ cho ngài đã sợ hãi thế nào. Ngài vừa cười vừa nói: "Tội nghiệp anh chàng Verchère của tôi, cầm súng trong tay mà cứ run như cầy sấy! Anh ta không còn nhớ rằng mình đang có súng trong tay nũa!"

NHỮNG NHÂN CHỨNG KHÁC

Anh chàng đóng xe từ chối, cha Viannây nói với ông xã trưởng, và ông gửi một lúc hai người tới nhà xứ để canh giữ: chính con trai ông là Antoine, một thanh niên khoẻ mạnh 26 tuổi, và người làm vườn ở lâu đài Ars tên Jean Cotton, 24 tuổi. Trong 12 ngày, tối nào họ cũng đến ngủ ở nhà xứ. Trước toà án phong thánh, họ khai như sau:

_ Chúng tôi không nghe thấy một tiếng động nào, Jean Cotton kể lại. Cha sở ngủ ở một phòng bên cạnh, không phải ngài cũng thấy như chúng tôi. Hơn một lần, giấc ngủ của ngài bị quấy phá, ngài kêu chúng tôi và nói: "Các con không nghe thấy gì sao?". Chúng tôi trả lời là không hề nghe thấy một tiếng động nào cả. Tuy nhiên, có lúc chúng tôi nghe thấy một tiếng động giống như tiếng một lưỡi dao gõ rất nhanh vào một cái lu đựng nước... Hồi tối, chúng tôi đã treo đồng hồ của mình gần cái gương trong phòng ngài. Cha sở nói với chúng tôi: "Cha lấy làm lạ là đồng hồ của các con không bị bể".

Dẫu sao, cha Viannây vẫn chưa dám nói gì về nguồn gốc và bản chất những tiếng động lạ thường mà ngài nghe thấy. Nhưng cuối cùng, sau khi có một kinh nghiệm mới nữa, ngài mới hiểu rõ.
Đường phố phủ đầy tuyết. Lúc đó, vào giữa mùa đông. Bỗng nhiên, giữa đêm khuya, có những tiếng kêu la vọng lên trong sân nhà xứ. Cathérine Lassagne, là người biết rất nhiều về cha sở, đã viết:
"Lúc đó y như có một đạo quân gồm lính Áo và lính Côzắc nói lộn xộn một thứ ngôn ngữ mà ngài không hiểu gì cả".

Vì thế, ngài xuống mở cửa ra, nhìn thấy tuyết vẫn y nguyên trên đường, không một dấu chân. Thì ra tất cả những tiếng lộn xộn đó, những tiếng ồn ào của những binh lính đi qua chỉ là ảo ảnh ảo giác! Ngài nghĩ, dẫu sao đây không phải là chuyện do con người làm ra được. Nhưng nếu không phải do con người, thì cũng không phải việc làm của "thần lành". Lần này, quả thật, ngài cảm thấy sợ! Đó là một dự cảm tiên báo một cuộc tấn công của hoả ngục! Ngài quả quyết như thế! Về sau, khi được Đức Giám mục của ngài là Đức Cha Delvie hỏi, ngài nói:

_ Con cho rằng đó là ma quỷ, vì con cảm thấy sờ sợ. Nếu là do Thiên Chúa nhân từ, thì ngài không làm cho người ta sợ hãi.

Từ lúc đó, ngài không còn cho rằng cầu cứu sự che chở của con người là hữu ích nữa. Ngài cho tất cả những người canh giữ nhà xứ về hết, và chỉ còn một mình ngài sẵn sàng trực diện với Đối Thủ.

QUỶ CÀO SẮT

Đối Thủ này - như chúng ta biết, từ Đối Thủ dùng để chỉ ma quỷ hay Satan - được cha Viannây gọi là con Quỷ Cào Sắt. Tại sao ngài lại chọn từ ngữ đó để gọi ma quỷ? Chắc hẳn là vì Satan luôn luôn tìm cách lôi kéo các linh hồn xuống hoả ngục, y như người ta thường dùng cái cào sắt có nhiều răng để kéo cỏ, kéo phân bón về một nơi nào đó. Đó là một hình ảnh rất cụ thể và sống động ở vùng đồng quê nơi ngài phục vụ.
Một khi đã biết chắc chắn những tiếng động đó phát xuất từ đâu, ngài dùng một chiến thuật rất đơn giản và đúng đắn để đối phó. Cha Beau giải tội cho ngài khai rằng:
_ Thỉnh thoảng tôi có hỏi ngài: "Làm sao ngài đẩy lui được những cuộc tấn công đó?" Ngài trả lời: "Tôi hướng về Thiên Chúa, làm dấu thánh giá, nói mấy lời khinh bỉ với ma quỷ. Vả lại, tôi nhận xét thấy khi nào tiếng động to hơn, và những cuộc tấn công gia tăng nhiều hơn, thì ngày hôm sau thế nào cũng phải có một tội nhân 'cỡ bự' nào đó tới!"
Thật là một khám phá lớn, một nguồn an ủi kì diệu đối với cha sở khiêm nhượng đó khi những người tội lỗi từ khắp nơi trong địa phận, thậm chí là trong cả nước Pháp, và đôi khi từ ngoại quốc đến gặp ngài để xưng tội.
Theo lời khai của một người bạn thân với ngài, thì về sau, ngài có nói với người bạn đó rằng: "Những lần đầu thì quả thực tôi sợ, vì không biết nó là cái gì. Nhưng bây giờ tôi rất hài lòng, vì đó là một dấu hiệu tốt cho biết mẻ lưới của ngày hôm sau luôn luôn tốt đẹp".
Và một lần khác ngài nói: "Đêm đó, ma quỷ quấy phá tôi dữ dội, nhờ vậy tôi biết ngày mai tôi sẽ gặp rất nhiều người... Con Quỷ Cào Sắt này ngu quá, chính nó báo cáo cho tôi biết trước khi nào có những tội nhân 'cỡ lớn' đó tới... Nó nổi giận, càng hay!".

MỘT THÍ DỤ DỄ NHỚ

Một trong những thí dụ gây cảm xúc nhất về việc ma quỷ quấy nhiễu, là chuyện xảy ra nhân dịp cử hành Năm thánh vào tháng mười hai năm 1826, tại Saint-Trivier-sur-Moignans.
Thành phố nhỏ này cách họ Ars khoảng 12 cây số. Mọi linh mục gần đó đều hẹn nhau tới đó để đón mừng Năm Thánh. Tại đây, người ta hy vọng cuộc lễ sẽ lôi kéo được rất nhiều người đến, và sẽ khuyến khích được nhiều người xưng tội và ăn năn hối cải.
Cha Viannây cũng khởi hành từ nhà cha trước rạng đông. Vừa đi ngài vừa lần hạt. Đó là một khí giới cha thích dùng để chiến đấu với Satan. Bỗng xảy ra một chuyện không thể cắt nghĩa được, tháng đó trong năm là đã gần tới mùa đông, chung quanh ngài xuất hiện những quầng sáng mờ mờ quái gở, không khí dường như bằng lửa. Ở hai bên đường, ngài có cảm tưởng rằng những bụi cây đang cháy. Ngài nghĩ rằng chính Satan làm ra như vậy để khiến ngài sợ sệt, vì nó thấy trước được những thành quả cứu độ mà Năm Thánh sẽ đem lại. Nhưng ngài vẫn tiếp tục con đường của mình đến đó.
Khi vừa tới nhà xứ ở Saint-Trivier, ngài bắt đầu ngay bổn phận của mình. Tối đến, tại nhà xứ, khi mọi sự dường như đều yên tĩnh, thì có những tiếng động không thể cắt nghĩa được nổi lên. Những tiếng động đó dường như xuất phát từ phòng của cha sở họ Ars. Các cha bạn, bị quấy rầy bởi những tiếng ồn ào lạ tai, đến than phiền với ngài. Ngài chỉ đơn sơ trả lời: "Đó là do con Quỷ Cào Sắt, nó đang giận lên vì những việc thiện mà chúng ta làm ở đây!"
Các linh mục bạn chỉ cười về sự quả quyết của ngài. Họ nói với ngài: "Cha không ăn cũng chẳng ngủ, nên chính cái đầu của cha nó ca nó hát, và có những con chuột đang chạy ở trong trí óc của cha đấy!".
Những ngày sau, các cha khác tha hồ chế diễu ngài. Một buổi tối, bị chế nhạo trách móc dữ dội hơn, ngài không nói gì cả. Nhưng khi mọi người vừa bắt đầu nằm xuống, thì có những tiếng động như tiếng của một chiếc xe chở rất nặng làm rung động cả nhà xứ. Mọi người đều sợ hãi chỗi dậy.
Đang khi mọi người tự hỏi tiếng động như thế phát xuất từ đâu, thì có một tiếng gãy bể từ phòng cha sở họ Ars vang ra, to đến nỗi cha sở họ đạo ở đó là Benoit phải kêu lên: "Cha sở Ars bị ám sát rồi!". Lập tức, mọi người đổ xô về phòng ngài và mở cửa: họ thấy gì lúc đó? Cha Viannây vẫn ngủ yên trên giường, nhưng có những bàn tay vô hình đã khiêng giường của ngài ra giữa phòng. Lúc đó ngài thức dậy và nói với họ tỉnh bơ: "Chính con Quỷ Cào Sắt đã lôi tôi ra tận đó, và gây ra tất cả những tiếng động ấy... Không sao đâu... Tôi rất tiếc là đã không báo cho các cha biết trước. Nhưng đó là một dấu hiệu tốt cho biết ngày mai sẽ đánh được một con cá lớn".
Ai cũng ngẫm nghĩ tự hỏi "con cá" đó là gì?
Các cha bạn vẫn còn chế nhạo ngài một chút, nhưng cũng ngán sợ cái mà họ gọi là "ảo ảnh" của ngài. Nhưng quả là ngài không lầm, mọi người đều công nhận điều ngài nói đó khi thấy một nhân vật trong vùng này mà họ biết là đã bỏ đạo, đó là một kỵ sĩ ở Murs, bước vào nhà thờ và đi thẳng tới toà giải tội của cha sở họ Ars. Việc trở lại của ông này đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trong cả vùng đó. Trong số những người chỉ trích cha Viannây gay cấn nhất, có một người bắt đầu từ lúc ấy coi ngài như "một vị thánh lớn".

NHỮNG BIỂU HIỆN KHÁC CỦA MA QUỶ

Những quấy nhiễu của Satan còn kéo dài nhiều năm nữa. Lúc trước chỉ có một mình cha sở Ars phải chịu đựng điều đó. Về sau, ma quỷ cũng quấy phá cả những người sống chung quanh ngài. Các cô giáo và các em nhỏ mồ côi ở trường Chúa Quan Phòng, một cơ sở sáng giá do cha sở thiết lập, cũng nghe thấy những tiếng động kì lạ trong một vài đêm. Ma quỷ còn chọc ghẹo cả cộng đoàn này. Về sau, trước toà án phong thánh, Marie Filliat cung khai rằng:

"Một hôm, sau khi rửa nồi, tôi đổ nước vào nồi để nấu súp. Tôi thấy trong nước có những miếng thịt nhỏ. Hôm đó lại là ngày ăn chay kiêng thịt. Tôi đổ bỏ hết nồi đó, rồi rửa nồi và đổ nước vào lần nữa. Khi nồi súp đã nấu xong sẵn sàng để dọn ra, thì tôi lại thấy trong đó có lẫn những miếng thịt nhỏ. Khi biết chuyện, cha sở bảo: 'Ma quỷ nó làm ra như thế đấy, cứ việc dọn lên mà ăn'".

Như mọi người thấy, cha sở Ars không hề bối rối. Lương tri của ngài vẫn không bị lay chuyển, và sự trông cậy của ngài vào Thiên Chúa đã khiến cho Satan không làm gì được ngài. Một hôm, người ta hỏi xem ngài có sợ không, ngài chỉ trả lời: "Cái gì rồi cũng quen! Quỷ và tôi, chúng tôi coi nhau như đồng chí".
Điều đó rõ ràng không có nghĩa là ngài cùng phe với ma quỷ. Ngày 4.12.1841, ngài tâm sự với các cô giáo trường Chúa Quan Phòng: "Các con nghe đây: tối hôm qua, quỷ nó tới phòng cha đang khi cha đọc sách nguyện. Nó thổi hơi rất mạnh, và dường như mửa ra một cái gì đó giống như hạt lúa mì hay hạt gạo trên nền nhà. Cha nói với nó: 'Tao sẽ lại đằng kia (nhà trẻ mồ côi) kể lại việc mày làm để người ta khinh rẻ mày'. Thế là nó im lặng ngay tức khắc".
Hôm khác, khi cha Viannây đang dỗ giấc ngủ vì ngài rất cần nghỉ ngơi, thì ma quỷ la lên để làm hao mòn sức khoẻ ngài chừng nào có thể: "Viannây! Viannây! Ta sẽ bắt mi! Hãy xem, ta sẽ bắt mi!". Ngài trả lời: "Tao đâu có sợ mày!".
Hiện nay, tại nhà xứ họ Ars, người ta thấy có một cái giường mà trước đây là giường của cha Viannây. Cái giường đó bị cháy khi nó được đặt ở nhà thờ, nhưng không biết nó bị cháy cách nào. Hồi đó, khi người ta tới báo cho ngài biết là nhà ngài bị cháy, thì ngài không trao chìa khoá cho họ để họ xông vào nhà dập tắt đám cháy. Mà ngài nói, mặt tỉnh bơ không lộ vẻ hoảng hốt: "Lại cái con Quỷ Cào Sắt khốn kiếp! Nó không bắt được chim, nên đã đốt cái lồng chim rồi".
Ma quỷ sỉ nhục, mắng nhiếc cha Viannây một cách rất thường xuyên, nó đe doạ ngài, nói với ngài những câu thô lỗ. Nó dùng những lời thô tục để chửi ngài: "Viannây! Viannây! Đồ ăn khoai thiu! A, mi chưa chết à! Ta sẽ bắt mi!". Tại nhà xứ, nó bắt chước tiếng gấu gầm gừ, tiếng chó tru tréo, lay động như điên những tấm màn ở giường ngài,...
Theo lời khai của Cathérine Lassagne và sư huynh Athanase, thì có những lần ma quỷ bắt chước tiếng búa đóng đinh xuống sàn, hay tiếng búa đóng vành sắt vào thùng tônô, nó đánh trống trên bàn, trên ống khói, trên bình nước, hoặc nó hát bằng một giọng nheo nhéo và sai lạc, khiến cho cha Viannây nói: "Con Quỷ Cào Sắt có một giọng nói tệ ơi là tệ!".
Thực ra, tất cả những cái đó chỉ là những trò kì cục, ấu trĩ hơn là nguy hiểm. Cũng may là ma quỷ không được phép làm tất cả mọi chuyện. Cha Viannây có một nghĩa vụ phải chu toàn mà Thiên Chúa trao cho. Nếu ma quỷ muốn gây trở ngại khó khăn cho nghĩa vụ đó bằng cách làm ngài bị mất ngủ, bằng cách tấn công cha đủ mọi mặt, thì phản ứng của ngài là lại càng làm nghĩa vụ đó một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn. Tóm lại, những quấy nhiễu chỉ làm bất lợi ngược lại cho kẻ gây ra chúng. Chúng ta sẽ thấy tương tự như vậy trong một số trường hợp bị quỷ nhập.
Hiện nay, có những "nạn nhân của quỷ" chấp nhận chịu mọi thử thách của ma quỷ để liên kết với những đau khổ của thập giá cứu chuộc của Chúa, là thứ khí giới chắc chắn sẽ chiến thắng Satan, và làm cho nó thất bại vĩnh viễn. Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó sau này!
Chúng tôi chắc chắn rằng cha sở Ars là người như thế. Ngài chấp nhận chịu đựng tất cả mọi sỉ nhục của ma quỷ để cứu rỗi các linh hồn. Qua các kinh nghiệm hằng ngày của ngài, ngài đã rất sớm nhận ra rằng cuộc chiến đấu của ngài với ma quỷ có liên quan chặt chẽ với việc người tội lỗi ăn năn trở lại, rằng Thiên Chúa dẫn đến với ngài những người tội lỗi ở khắp mọi miền nước Pháp, kể cả ở ngoại quốc nữa.
Bây giờ chúng ta sẽ nói đến những biểu hiện của Satan gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong đời sống của "vị linh mục Công giáo gương mẫu" này như thế nào.

CON RẮN

Theo thánh sử Gioan, Con Rồng hay Con Rắn cám dỗ bà Eva chính là Satan. Vì thế, không có gì lạ khi ma quỷ thỉnh thoảng hiện ra dưới lốt một con rắn. Chúng ta sẽ có một thí dụ điển hình về việc đó trong một chương sau, về trường hợp bị quỷ nhập của Claire-Germaine Cèle ở Nam Phi châu.
Sau đây là một đoạn văn của cha Monnin, người đầu tiên viết tiểu sử cha sở họ Ars, kể lại lời chứng của Cathérine Lassagne, là người nổi tiếng tận tâm với cha sở Ars. Chính chị Cathérine nói:
_ Một buổi tối, cha sở đến trường chúng tôi để thăm một bệnh nhân. Khi tôi gặp lại ngài ở nhà thờ, ngài bảo: "Con thích nghe tin tức! Được rồi! Đây là một tin rất sốt dẻo. Hãy nghe cha kể chuyện mới xảy đến với cha sáng nay. Cha có một vật để trên bàn, con có biết đó là cái gì không?".
Xin mở ngoặc ở đây: ngài muốn nói về kỷ luật của ngài. Ngài chưa bao giờ nói với Cathérine về điều đó, nhưng nhiều lần chị đã thấy cái dụng cụ khủng khiếp ấy dưới gầm giường ngài. Chị biết rõ ngài để nó ở đó không phải để làm vật tượng trưng. Rõ ràng là vị linh mục thánh thiện này đã dùng nó, thậm chí dùng thường xuyên nếu không nói là hằng ngày. Nhưng chị chưa bao giờ hở môi hỏi ngài về điều đó, mà ngài cũng không hề nói với chị. Thế mà lần này tự nhiên ngài lại nói:
_ Con có biết cái gì đây không? Nó tự nhiên trườn lên bàn của cha như một con rắn! Thấy vậy, cha hơi sợ. Con biết đó là một sợi dây thừng: cha cầm sợi dây lên, nó cứng như một thanh gỗ. Cha lại đặt nó xuống bàn, nó lại bắt đầu trườn đi như vậy tới ba lần."
Một trong những cô giáo có mặt trong cuộc nói chuyện đó phản bác: "Có thể cha đã rung cái bàn của cha?"
_ Không, cha sở đáp, cha không hề đụng tới cái bàn.

NHỮNG LẦN MA QUỶ HIỆN RA

Chính cha Monnin còn tự hỏi ma quỷ có thực sự hiện ra với cha sở Ars không? Cha muốn nói về sự hiện ra thấy được, không phải chỉ là tai nghe mà là mắt thấy. Chúng ta biết là nhiều lần ma quỷ đã thổi vào mặt cha, và cha đã cảm nhận trên mặt mình có cái gì đó giống như một con chuột chạy qua. Nhưng ngài có trông thấy Satan không? Thấy nó dưới hình thức nào? Cha Monnin trả lời cho câu hỏi này bằng hai sự kiện.
Một hôm, vào lúc ba giờ sáng, cha Viannây thấy một con chó đen lớn có đôi mắt sáng quắc, lông lởm chởm, nó cào cào xuống đất ở chỗ trước đó vài tuần lễ người ta đặt xác của một người chết chưa xưng tội. Trông thấy con chó ở một chỗ như thế ngài sợ lắm! Ngài không hề nghi ngờ về thực chất của con chó đó. Ngài chắc chắn đó là quỷ, và nó trốn vào trong toà giải tội của ngài. Cha Monnin còn nói thêm: người ta thấy sự kiện này có một cái gì giống hệt như ở trong đời sống của thánh Stanislas ở Kotska: ma quỷ đã hiện ra với vị thánh này khi ngài bị bệnh, dưới lốt một con chó giận dữ, có vẻ như muốn phóng bổ vào ngài, và ngài đuổi nó ba lần bằng cách làm dấu thánh giá.
Cha Viannây còn kể rằng quỷ đã hiện ra với ngài dưới lốt những con dơi bay vào phòng ngài và bay chung quanh giường của ngài. Chúng nhiều đến nỗi các bức tường trở thành đen kịt.
Sự kiện đó khiến chúng ta, cũng như cha Monnin, tự hỏi có phải cha sở Ars là người duy nhất nghe, cảm thấy hay xem thấy nhiều chuyện khó tin như thế không?

LỜI CHỨNG

Về vấn đề này, chúng ta đã có sẵn một câu trả lời. Khi ma quỷ bắt đầu quấy nhiễu, cha sở Ars không biết chuyện gì xảy ra cả. Cha đã cầu cứu và nhận được sự can thiệp của một vài người trong họ đạo: anh chàng Verchère và vài người khác nữa. Tất cả những người đó đều đã nghe thấy như ngài. Tất cả đều sợ hãi, còn sợ hãi hơn ngài nữa. Tất cả đều kết luận như ngài, rằng không thể lẫn lộn những tiếng động mà họ nghe được với những tiếng động tự nhiên. Cha Monnin còn trưng ra những nhân chứng khác, và chúng tôi cũng tường thuật lại sau cha chính những nhân chứng ấy, vì họ đã đến xác nhận với chúng tôi sự kiện chính trong số những sự kiện ma quỷ quấy nhiễu ở Ars, chung quanh thánh Gioan-Maria-Viannây.
Năm 1829, khi những "chuyện ma quỷ" ấy đã xảy ra được 5 năm, thì có một linh mục trẻ thuộc giáo phận Lyon đến Ars, linh mục này là con bà quả phụ Bibot, bà là người đã giúp cho cha sở thánh biết bao nhiêu công việc, ngay từ khi ngài được bổ nhiệm tới họ Ars.
Cha Bibot cũng được cha Viannây tín nhiệm như mẹ mình. Cha đến với ngài để cấm phòng. Đương nhiên cha được ngài tiếp đón hết sức thân tình, vì ngài biết ơn mẹ của cha một cách sâu xa. Và cha ở trong nhà xứ của ngài.
Chúng tôi có một trình thuật của cha Bibot về những gì xảy ra lúc đó ở nhà xứ họ Ars. Trình thuật này được cha Renard, bạn cha Bibot, kể lại. Cha Renard hỏi cha Bibot:
_ Cha ngủ tại nhà xứ. Vậy cha hãy cho tôi biết những chuyện ma quỷ xảy ra ở đó. Có thật là nó gây ra những tiếng động không? Cha có nghe thấy không?
_ Có chứ, cha Bibot trả lời, đêm nào tôi cũng nghe thấy. Nó nói bằng một giọng nheo nhéo và hoang dại, giống như những tiếng kêu của loài hươu nai. Nó cứ quanh quẩn quanh những cái màn của cha sở, và lay động những cái màn đó dữ dội. Nó gọi đích danh ngài: Tôi nghe rõ mồn một những câu: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó! Cút đi! Xéo đi!".
_ Những tiếng động và kêu la ấy hẳn phải làm cha sợ hãi chứ?
_ Không hẳn vậy! Tôi không nhát gan đâu, vả lại, cha Viannây có mặt ở đó làm tôi an tâm. Tôi cầu xin Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ và tôi ngủ được. Nhưng tôi thực sự tội nghiệp cho cha sở: tôi không muốn ở lại mãi với ngài. Vì tôi chỉ ở đó như một khách tới thăm, nên tôi cũng phải rút lui "có trật tự", mặc cho Thiên Chúa lo liệu.
_ Cha có hỏi cha sở ở đó không?
_ Không, tôi có ý định đó nhiều lần, nhưng vì sợ làm phiền ngài, nên không dám mở miệng. Tội nghiệp cha sở! Tội nghiệp cho con người thánh thiện đó! Làm sao ngài có thể sống được giữa những cảnh đảo điên như thế?
Đó là một chứng cứ rất rõ ràng. Cha Bibot đã nghe thấy, đã tội nghiệp cho cha sở. Ngài thẩm định rằng việc chịu đựng những cuộc tấn công được lập đi lập lại hằng đêm như thế quả là quá sức của ngài. Cuộc chiến đấu liên tục với ma quỷ này là một chuyện xảy ra thực sự, và làm cho người ta mệt lừ.
Có điều nên ghi nhớ trong bài tường trình của cha Bibot, đó là lời cha đã nghe: những lời mà Satan cứ lập đi lập lại hoài vào tai cha sở: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó? Cút đi! Xéo đi!".
Chúng tôi sẽ nhấn mạnh những lời này sau. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta có thể biết rằng đó là một trong những hình thức ma quỷ bách hại hay quấy nhiễu cuộc đời của cha Gioan-Maria-Viannây, người giải tội và làm cho người ta trở lại với Chúa không biết mệt!

MỘT XÁC NHẬN KHÁC

Và đây là lời xác nhận thứ hai, vẫn theo tiểu sử mà cha Monnin viết về cha Viannây.
Năm 1842, nghĩa là 13 năm sau khi cha Bibot tới thăm, có một tội nhân hối cải tới Ars, nhưng vẫn còn ngần ngại chưa quyết định đến xưng tội với cha sở thánh thiện ấy. Đó là một cựu quân nhân đã chuyển sang ngành hiến binh đang phục vụ ở quận Ain. Cũng như bao người khác, vào nửa đêm, ông ta đứng dậy đến cửa nhà thờ để chờ cha giải tội nổi tiếng mà ai cũng kính trọng ấy tới.
Trong lúc ngài chưa tới, ông ta đi bộ chung quanh nhà thờ, rất gần với nhà xứ. Mới đây ông bị nhiều điều phiền muộn, và chúng vẫn còn để lại cho ông một cảm tưởng vừa buồn, vừa bất an, vừa lo sợ bị Chúa phạt. Tất cả những chuyện đó vẫn còn ngổn ngang trong thâm sâu tâm hồn ông. Chân lý Kitô giáo đã lôi kéo ông và làm ông lo sợ. Ông muốn xưng tội, nhưng tâm trí ông vẫn còn đang diễn ra một cuộc chiến đấu dữ dội chung quanh ý định trở lại của ông.
Trong lúc ông đang phải chiến đấu - cuộc chiến đấu mà biết bao người khác đã phải trải qua, ở Ars cũng như ở bao chỗ khác - thì ông bỗng nghe thấy một tiếng động lạ thường dường như phát xuất từ cửa sổ nhà xứ. Cha Monnin viết:
"Ông ta nghe thấy một giọng nói mạnh, nheo nhéo và chói tai, y như vọng lên từ hoả ngục, lập đi lập lại nhiều lần những lời mà ông nghe rất rõ: 'Viannây! Viannây! Lại đây! Lại đây!'. Cái tiếng kêu từ hoả ngục ấy làm ông kinh hãi. Ông bị lay chuyển rất mạnh khiến ông bỏ đi. Lúc đó, ở tháp chuông, đồng hồ lớn gõ một tiếng. Lập tức cha sở xuất hiện cầm đèn trong tay. Ngài gặp ông này vẫn còn đang hết sức xúc động. Ngài trấn an ông, đưa ông vào nhà thờ. Trước khi hỏi ông và nghe những điều đầu tiên ông kể về lai lịch của mình, thì ngài đã làm ông cảm động vì những lời này: 'Này anh bạn, anh đang phiền muộn. Vợ anh vừa sinh đẻ xong thì mất. Nhưng hãy cậy trông vào Chúa. Chúa nhân từ sẽ đến nâng đỡ anh... Nhưng trước hết, hãy làm cho lương tâm mình được yên ổn đã, rồi anh mới ổn định được các công việc của anh dễ dàng hơn'.
Anh hiến binh đó nói: tôi không hề chống cự lại, tôi quỳ xuống như một đứa trẻ và bắt đầu xưng tội. Trong cơn bối rối, tôi không làm sao liên kết các ý tưởng lại với nhau, nhưng cha sở nhân từ đã giúp tôi. Ngài hiểu ngay tận đáy tâm hồn tôi, ngài cho tôi thấy những điều mà tôi không thể nhận thức được, những điều khiến tôi ngạc nhiên khôn xiết. Tôi không tin rằng có người lại hiểu được, đọc được tâm hồn người ta chính xác đến thế!".
Qua những lời chứng vừa mới kể, chắc chắn không có gì khiến người ta phải thắc mắc khi thấy rằng trong chương nói về hiện tượng quỷ nhập và những dấu hiệu quỷ nhập lại nói tới việc hiểu biết về những chuyện ẩn kín. Trong chương cuối cùng, chúng tôi sẽ đưa ra nhiều thí dụ cho thấy Satan cũng biết về những chuyện ẩn kín trong lương tâm này.
Nghĩa là sao? Chắc chắn không phải nhờ ma quỷ mà thánh nhân ở họ Ars mới đọc được tâm hồn người ta. Sở dĩ Satan biết như thế một cách chắc chắn nhiều hay ít, là do những ân huệ đặc biệt của trí khôn thiên thần, dẫu nó là một thiên thần sa ngã. Trái lại, nơi cha Viannây, việc biết những chuyện bí mật trong lương tâm là một đoàn sủng cao quý nhất, nhờ nó mà ngài khiến cho người tội lỗi ăn năn trở lại một cách hiệu quả nhất. Lời thú nhận của người hiến binh mà chúng ta vừa kể chỉ là một thí dụ trong hàng ngàn thí dụ khác.

LỜI CHỨNG CỦA Y SĨ

Bây giờ chúng ta đã có đủ chứng cớ để bác bỏ những giải thích quá sơ lược cho rằng những hiện tượng ma quái được kể ra đây là do việc ăn chay hãm mình quá đáng của cha Viannây, hay do khuynh hướng cho bất kì chuyện gì xảy đến cũng đều do siêu nhiên cả của ngài. Các linh mục bạn của ngài khởi đầu cũng nghĩ như vậy. Nhưng rồi họ cũng phải thay đổi ý kiến. Cuối cùng, mọi người đều phải công nhận sự bình tĩnh lạ thường và lành mạnh của ngài, và công nhận những chuyện xảy ra giữa ngài và Satan là có thực. Ngài nói những chuyện đó một cách rất tự nhiên, vừa nói vừa pha trò châm biếm. Cathérine Lassagne đã nhiều lần lưu ý tới những chuyện ngài kể cho những người chung quanh về đề tài ấy. Như ta đã biết, đó cũng chính là một trong những phản ứng của ngài đối với ma quỷ: "Tao sẽ nói với họ tất cả những gì mày làm để người ta cười mày!".
Chúng ta cũng nên nghe các y sĩ của ngài nói về vấn đề này. Tất cả những người sống gần ngài đều nói rằng ngài hoàn toàn quân bình về thể lý cũng như tâm lý. Người ta hỏi ông J.B Saunier, là bác sĩ thường xuyên chữa bệnh cho ngài, về những chuyện ma quỷ quấy nhiễu. Khi người ta dám mở miệng ra nói với ông hai tiếng "ảo ảnh", thì ông trả lời một cách quả quyết rằng: "Để trả lời cho những cố gắng nhằm giải thích những hiện tượng thuộc loại này về mặt sinh lý, chúng tôi chỉ có một điều phải nói, là nếu người ta có thể chấp nhận những giải thích ấy khi đã biết rõ những sự kiện được thực hiện trong những điều kiện bệnh lý xảy ra đồng thời, khiến ta thấy được bản chất của những sự kiện, là những sự kiện bình thường không bao giờ gây ra một khuyết tật nào - như trì độn, động kinh hay những dấu hiệu điên loạn - thì không thể nào gán cho những sự kiện đó có cùng một nguyên nhân khi chúng hội tụ lại với nhau như trong trường hợp của cha Viannây, khi mọi chức năng trong cơ thể ngài đều hoạt động rất điều hòa, ý tưởng của ngài rất rõ ràng minh bạch, nhận thức rất tinh tế, phán đoán và cách nhìn rất chắc chắn, sự tự chủ rất đầy đủ, sức khoẻ kì diệu của ngài giữ được mãi, hầu như không hề bị suy giảm giữa những công việc liên tục đến hàng loạt khiến ngài phải tiêu hao sức lực".
Y sĩ này có lý. Những ơn siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho cha sở họ Ars để tôn vinh ngài đã được ghép với những tính tốt tự nhiên của ngài, những tính tốt mà lịch sử dễ dàng nhận thấy. Ngài có những thiên tư cần thiết để trừ quỷ một cách hữu hiệu hơn bất cứ một linh mục nào khác trong địa phận của ngài, và có thể hơn mọi linh mục đồng thời với ngài. Một hôm, Đức Cha Devie, giám mục của ngài, đã làm cho một số những kẻ phê bình ngài phải câm miệng: "Tôi không biết là cha sở Ars có được đào luyện hay không, nhưng tôi biết rằng ngài được ơn soi sáng". Đức Cha rất xác tín về điều đó đến nỗi đã ban cho ngài được phép toàn quyền sử dụng mọi quyền năng trừ quỷ của ngài trong tất cả mọi trường hợp đến với ngài. Chúng ta sẽ thấy ngài làm việc ấy trong một chương khác trong sách này.
Nhưng trước đó, chúng ta nên tiếp tục tìm hiểu những cuộc tấn công của ma quỷ trong đời sống của vị thánh thời đại này.

CÁM DỖ LỚN NHẤT

Ngày 12.4.1959, để kỷ niệm 100 năm ngày mất của cha sở họ Ars, tại nhà thờ Đức Bà Paris, Đức Cha Fourrey, Giám mục Belley, đã nói một bài tán tụng trọng thể về thánh Gioan-Maria-Viannây, trong đó Đức Cha đã mô tả những quấy nhiễu của ma quỷ như sau:
"Tôi không ngần ngại gợi lên đây những đau khổ lạ thường cứ diễn đi diễn lại trong suốt 35 năm, những đau khổ ấy chắc chắn phải làm tê liệt việc thi hành tác vụ linh mục nếu ngài chỉ như mọi linh mục khác. Ngay khi biết được những quấy nhiễu ấy là do ma quỷ, ngài đã tự trấn an: Vị Thầy mà mình đang phục vụ thì mạnh hơn Ma Quỷ. Vì thế, đêm nào những hiện tượng ma quái đáng sợ ấy xảy ra một cách đặc biệt, thì ngài còn vui mừng nữa. Đối với ngài, đó là dấu hiệu cho biết hôm sau sẽ có những tội nhân 'cỡ lớn' - những 'con cá bự' như ngài thường nói - nhờ toà cáo giải của ngài mà trở thành những người có ân nghĩa với Chúa".
Nhưng vị Giám mục hùng biện đó lập tức cho thấy ngay điều quan trọng nhất, theo ý kiến ngài, trong sự kiện ma quỷ quấy nhiễu cuộc sống của một vị đại thánh như thế. Ngài nói:
"Tôi muốn nói tới cái mánh khoé tinh vi hơn của Thần Ác muốn tìm cách làm cho ngài thất vọng, rồi dùng màu sắc của một sự thánh thiện cao nhất để tách ngài ra khỏi những chức năng mà Giáo Hội đã trao phó.
Việc cứu rỗi các linh hồn luôn luôn ám ảnh ngài, tràn ngập tâm hồn ngài, sẽ trở thành một đam mê thánh thiện mà kẻ thù của mọi sự thiện sẽ dùng nó một cách rất nghịch lý để làm cho ngài mù quáng. Nó muốn đưa người của Thiên Chúa vào một thảm kịch nội tâm bi đát nhất mà người ta có thể quan niệm được. Có thể trong khi muốn cứu rỗi các linh hồn, mà vì dốt nát và bất lực, ngài có nguy cơ dẫn đưa các linh hồn đến hư mất và cùng chịu trầm luân với họ chăng? Bổn phận đích thực của ngài chẳng phải là tự xoá mình đi thay vì trở thành một linh mục sáng giá, và che dấu mọi bất hạnh to tát của mình trong tĩnh tâm, cầu nguyện và sám hối sao? Nhưng đây mới là nỗi đau khổ lớn nhất mà ngài đã chịu: đó là Đức Giám mục địa phận đã ra lệnh cho ngài phải ở lại nhiệm sở, tiếp tục chu toàn bổn phận, cái bổn phận vượt quá sức ngài, cái bổn phận mà ngài có cảm tưởng mình đã phản bội".
Không có gì làm người ta cảm động hơn là thấy thảm trạng này. Ma quỷ đã nắm được vị thánh nhờ cái mà người ta gọi là "điểm yếu" của ngài, và cái "điểm yếu" này trong thực tế lại chính là cái "điểm mạnh" của ngài! Ngài là một linh mục trung thành, là người đầy tình thương và đầy tinh thần phục vụ! Nhưng ngài cũng là người cảm nghiệm được sự hư không của mình, biết tự hạ mình trước Chúa Giêsu của ngài. Và ma quỷ lợi dụng ngay chính điểm này, nắm ngay lấy sự khiêm nhượng này, đưa nó tới một cực đoan nào đó, cực đoan này sẽ biến cái nhân đức lớn nhất ấy thành một nguy hiểm lớn lao nhất cho linh hồn của vị thánh. Còn thủ đoạn nào khéo léo hơn, nguy hiểm đối với nạn nhân mà nó nhắm tới hơn là thủ đoạn đó? Cần biết thêm rằng điều đã củng cố cho ý định trốn đi của cha sở thánh này, là ngài tin, cũng như rất nhiều vị linh mục thánh thiện trước ngài và đồng thời với ngài đã tin, tin rằng nên dành một khoảng thời gian nào đó giữa thời thi hành tác vụ và giờ chết, để bằng sự thống hối sửa chữa lại tất cả những thiếu sót về hành động trong suốt cả đời mình.
Đức Cha Fourrey nói tiếp: "Ma quỷ tìm cách đưa cha sở Ars vào cái bẫy duy nhất mà ngài có thể sa vào. Nó đẩy ngài vào một con đường không phải là con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho ngài, bằng cách làm cho ngài phải âu lo trong lương tâm, tức nơi xảy ra cuộc chiến đấu của ngài.
Sư huynh Athanase nói: "Người tôi tớ của Thiên Chúa đó phải chịu rất nhiều đau khổ nội tâm. Đặc biệt ngài bị dằn vặt vì muốn được sống tĩnh mịch: ngài thường nói về chuyện đó. Ý muốn đó như một cơn cám dỗ ám ảnh ngài ban ngày, và còn nhiều hơn nữa vào ban đêm. Ngài nói với tôi: 'Đêm nào tôi không ngủ được, là tâm trí tôi luôn luôn đi du lịch: khi thì ở tu viện Trappe, khi thì ở dòng Chartreuse, tôi muốn tìm một xó xỉnh nào để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn của tôi, và để thống hối tội lỗi tôi'. Ngài cũng thường nói ngài không hiểu được rằng tại sao ngài lại không ngã lòng khi thấy những nỗi bất hạnh của mình. Ngài rất sợ sự phán xét của Thiên Chúa. Mỗi lần nói đến chuyện đó, ngài sợ run lên. Ngài khóc và nói rằng mối lo ngại lớn nhất của ngài là sợ tới giờ chết mà lại ngã lòng thất vọng. Ngài sợ hãi và lo lắng khi phải mang lấy trách nhiệm mục vụ của mình. Ngài không muốn chết khi đang làm cha sở. Ngài thú nhận rằng đó là nỗi sợ khiến cho ngài bị cám dỗ đi trốn lần thứ hai. Ngài nói với tôi: 'Tôi muốn đặt Thiên Chúa nhân lành ở chân tường để cho Ngài thấy rằng nếu tôi chết trong trách nhiệm của linh mục, thì đó không phải là do tôi muốn, mà là vì Ngài muốn'".
Chúng ta có thể nói: có lẽ ngược lại như vậy, khi sắp đến thời mà ơn kêu gọi trở nên hiếm hoi hơn, thì Thiên Chúa muốn dùng gương sáng của ngài để chứng tỏ rằng một cha sở tốt có thể chết hoặc phải chết "tại trận". Vào thời của ngài, các linh mục không bị thiếu một cách trầm trọng như thời của chúng ta. Cuộc đối thoại sau đây giúp ta hiểu điều đó:
_ Tôi sẽ đi khỏi đây!
_ Đức Giám mục không muốn cha đi.
_ Đức Cha không cần tới tôi: ngài đã có đủ người làm cha sở rồi. Còn tôi, tôi cần phải có chút ít thời giờ để khóc lóc cho cuộc đời khốn nạn của tôi, và để thống hối tội lỗi hầu chuẩn bị về với Chúa.
Mẩu đối thoại này xảy ra giữa ngài và Cathérine Lassagne, cũng như xảy ra với sư huynh Athanase. Chị vừa thuật lại điều đó vừa kết luận: "Chính vì thế mà ngài quyết ra đi."
Cha Monnin là người rất rành rọt về mọi chi tiết của đời sống cha sở Ars, theo cha thì vị thánh nhân xứ Ars này nhìn nhận rằng có sự bất hợp lý trong ước muốn của ngài, và ma quỷ đã lợi dụng điều đó để cám dỗ ngài. Và chúng ta biết rằng ngay từ những năm đầu ngài nhận chức vụ ở Ars, ngài đã phải nghe hoài câu nói muốn phát khùng của ma quỷ: "Viannây! Viannây! Mi làm gì đó? Hãy cút đi! Xéo đi!". Theo lời chứng của cha Bibot, thì ngài đã phải nghe lời của ma quỷ đó ít nhất từ năm 1829. Ta có thể chắc chắn rằng đó là cơn cám dỗ chủ yếu của đời ngài, và ngài đã chống trả cơn cám dỗ đó một cách can đảm. Tuy nhiên, có hai lần ngài suýt nhượng bộ cơn cám dỗ, nhưng cuối cùng ngài đã vâng theo thánh ý Chúa và mệnh lệnh của Giám mục một cách tốt đẹp đến nỗi ngài đã chết vì bổn phận như Chúa Giêsu của ngài đã mong muốn.
Đức Cha Fourrey còn nói: "Việc ngài muốn trốn hai lần không phải là những dự tính chống đối bề trên. Vì khi định ra đi, ngài có viết cho Đức Giám mục địa phận: 'Xin Đức Cha chắc chắn rằng con sẽ trở về khi nào Đức Cha muốn con trở về'. Nhưng việc báo động về thảm trạng lương tâm của ngài cho toà giám mục dường như đối với ngài là phương tiện cuối cùng đạt được sự giải phóng mà ngài khao khát. Cathérine Lassagne đã nhận thấy: 'Ngài tin rằng khi trốn khỏi họ đạo là ngài làm theo thánh ý Chúa'.
Chỉ sau thất bại trong lần thử trốn đi vào năm 1853, ngài mới phát giác ra có sự can thiệp của ma quỷ trong những ước mơ đã ám ảnh ngài là được sống trong sự tĩnh mịch, xa khỏi họ đạo Ars để thống hối ăn năn".
Đó là cuộc chiến đấu gay cấn nhất của cha sở họ Ars chống lại "Con Quỷ Cào Sắt". Nếu ma quỷ muốn chơi khăm ngài bằng cách tỏ hiện ra một cách kì cục và tức cười, thì nó cũng biết tỏ ra là một tên cám dỗ đặc biệt sành sỏi và bạo dạn.

CHA SỞ ARS VÀ TRÒ CHIÊU HỒN

Việc chúng ta tìm hiểu về "cha sở họ Ars và ma quỷ" sẽ không đầy đủ nếu chúng ta không biết một vài câu truyện chính xác về phản ứng của ngài đối với trò chiêu hồn mà ngài luôn luôn coi như trò ma quỷ.
Vì có những bất động sản ở Beaujolais, không xa Villefranche, nên khi nào cư ngụ tại đó, Bá tước Jules de Maubou cũng hay tới thăm vị thánh ở Ars. Ông ta vừa là bạn vừa là hối nhân của ngài. Ông thuộc giai cấp phong lưu trong xã hội, trong đó người ta "giải trí" bằng trò chơi cầu cơ. Một hôm ông tham dự trò chơi ấy chỉ vì muốn làm theo "mốt" thời đó.
Hai ngày sau, ông ta tới Ars, thoạt trông thấy cha Viannây, thì như thường lệ ông đi thẳng tới chỗ ngài, vừa mỉm cười vừa đưa tay ra để bắt tay. Nhưng ông ta ngạc nhiên biết bao khi thấy cha sở chặn ông lại bằng một cử chỉ ngay trước khi ông định nói với ngài, và bằng một giọng buồn buồn xen lẫn nghiêm nghị, ngài nói:
_ Này anh Jules, hôm kia anh đã giao dịch với ma quỷ! Anh hãy đến xưng tội đi!
Bằng những phương thế tự nhiên, chắc chắn cha Vannây không thể biết được chuyện gì đã xảy ra với ông ta hai ngày trước. Vì thế, vừa ngạc nhiên vừa ngoan ngoãn, ông bá tước trẻ này đã quỳ gối xuống xưng tội và hứa sẽ không bao giờ tham dự vào một trò chơi mà người của Thiên Chúa đã tuyên bố là có ma quỷ nữa.
Ít lâu sau, khi ông trở lại Paris, ông lại thấy người ta chơi cầu cơ trong một phòng khách. Họ mời ông chơi, ông từ chối. Họ khẩn khoản mời ông, ông vẫn một mực từ chối. Người ta nắm tay nhau quanh bàn cầu cơ. Bá tước Maubou bỏ đi tìm một góc ngồi, từ thâm tâm ông phản đối trò chơi đang diễn ra không có ông. Nhưng bất chấp mọi người chờ đợi, bàn cầu cơ vẫn bất động. Người đồng cốt, tức người chủ động của trò chơi, hết sức ngạc nhiên. Cuối cùng ông ta nói: "Tôi không hiểu tại sao, chắc chắn ở đây có một thế lực cao hơn đang làm tê liệt tác động của chúng ta."
Sau đây là chuyện thứ hai cũng tương tự như câu chuyện thứ nhất. Charles de Montluisant, một sĩ quan trẻ tuổi, đã từng nghe nói đến những điều lạ lùng ở Ars, nên đã cùng với bạn bè quyết định tới đó, thuần tuý vì hiếu kì. Trên đường, các sĩ quan đó thoả thuận với nhau rằng mỗi người phải hỏi cha sở Ars một câu. Chỉ có De Montluisant tuyên bố là anh ta không có gì để hỏi cha cả, nên anh sẽ không hỏi ngài điều gì hết!
Vì thế, họ tới Ars. Thình lình, trong bọn họ có người muốn chơi khăm anh ta, nên nói với cha sở:
_ Thưa cha sở, đây là anh De Montluisant, một đại uý trẻ có tương lai, anh có điều muốn hỏi cha.
Anh đại uý mắc bẫy, đành phải tham dự cuộc chơi của bè bạn. Không biết hỏi gì, anh chỉ hỏi đơn sơ:
_ Thưa cha, những câu chuyện ma quỷ mà người ta nói về cha không có thật, phải không ạ? Đó chỉ là tưởng tượng!
Để trả lời, cha sở nhìn viên sĩ quan với ánh mắt xuyên suốt và nói bằng một giọng gọn gàng và quả quyết:
_ Ồ, anh bạn, về chuyện đó, anh đã từng có kinh nghiệm điều gì rồi! Nếu anh không làm như thế, thì anh không thể nào dứt nó ra được!
Câu trả lời thật bí ẩn, khó hiểu, nhưng lại đầy quả quyết. Họ nhìn nhau. Mọi người im lặng, và anh đại uý không trả lời trước sự ngạc nhiên của bè bạn.
Nhưng, khi gặp lại nhau, bạn bè anh muốn biết rõ sự việc ấy thế nào: hoặc cha sở nói một cách may rủi không có gì chính xác, hoặc ngài thực sự muốn nói điều gì. Nhưng điều ấy là điều gì?
De Montluisant trả lời rằng hồi anh còn học ở Paris, anh có gia nhập vào một nhóm từ thiện bác ái, nhưng lại là một nhóm chơi trò chiêu hồn. Anh nói:
"Một hôm, khi bước vào trong phòng của tôi, tôi có cảm tưởng rằng không phải chỉ có một mình tôi trong phòng. Cảm giác kì lạ này làm tôi bất an. Tôi nhìn, tôi kiếm khắp nơi mà không thấy gì cả. Hôm sau cũng vậy. Mặt khác, dường như có một bàn tay vô hình nào đó xiết vào họng tôi. Tôi là người theo đạo Chúa, nên tôi lấy nước thánh ở Sait-Germain-l'Auxerrois là họ đạo của tôi, rảy khắp phòng, mọi góc kẹt, xó xỉnh. Từ đó, mọi cảm giác có sự hiện diện siêu nhiên nào đó biến mất luôn. Thế rồi tôi rút ra khỏi nhóm chơi trò chiêu hồn đó. Tôi chắc chắn rằng cha sở Ars đã ám chỉ tới việc rắc rối ấy xảy ra cách đây đã lâu".
Những sự kiện vừa kể được xếp vào hồ sơ ở mục trò chiêu hồn mà chúng tôi sẽ nói lại ở một chương khác. Nhưng khi nghĩ rằng cha sở họ Ars đã chứng tỏ được ơn Thiên Chúa soi sáng suốt cả cuộc đời ngài, và ngài đã có rất nhiều kinh nghiệm nhờ nghe vô số người đến xưng tội, thì chúng ta không thể nào không có ấn tượng khi thấy ngài quả quyết một cách rõ ràng chắc chắn rằng, hầu hết những cuộc chiêu hồn đích thực đều do ma quỷ làm ra.
Cha sở Ars đã trông thấy và biết những điều mà chúng ta không thể trông thấy hay biết được. Không thể coi nhẹ những quả quyết của ngài về vấn đề này, vì thế chúng tôi nghĩ rằng cần phải nhấn mạnh điều đó, hơn là giải quyết những vấn đề phức tạp không kém gì những vấn đề siêu linh học đó.

TỔNG KẾT VÀ SO SÁNH

Vì giới hạn của chương này, chúng tôi chỉ trình bày những câu chuyện đặc thù, và đối với đầu óc của người thời đại thì cũng rất lạ thường. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng tốt hơn nên một mặt tổng kết lại, mặt khác đưa ra những đối chiếu so sánh. Tổng kết này chúng tôi dành để nói về ma quỷ, nó sẽ cho ta thấy sự hăm hở của ma quỷ trong việc chống lại cha sở họ Ars. Những so sánh chúng tôi đưa ra sau đó sẽ giúp chúng ta xác định vị thế của thánh nhân trong hàng ngũ các tôi tớ cao cả của Chúa trong quá khứ.
Ma quỷ sở dĩ ghét cha Gioan-Maria-Viannây, bằng mọi giá làm cho ngài sao lãng bổn phận, hoặc bằng cách làm ngài mất ngủ để tiêu hao sức khoẻ ngài, hoặc một cách tinh vi hơn làm cho ngài âu lo thao thức, khiến ngài muốn trốn vào sa mạc, chính vì ngài hiểu rõ sự hiện hữu của việc cầu nguyện, của việc ăn chay hãm mình, của tác vụ linh mục trong việc làm cho người tội lỗi ăn năn trở lại. Một hôm Satan dùng miệng của một phụ nữ bị quỷ nhập để nói với ngài trước mặt các nhân chứng rằng:
"Mi làm ta đau khổ biết bao! Nếu trên trái đất này có 3 người như mi thì vương quốc của ta sẽ bị tiêu diệt mất. Mi đã cướp khỏi tay ta 80 ngàn linh hồn rồi đấy!".
Những lời này được nói ra trong thời gian cha sở Ars đang nhờ một vị thừa sai tới giảng cho các con chiên trong họ đạo của ngài. Khi nói với vị thừa sai, cha đã giảm đi 3/4 số lượng các linh hồn mà mọi người đã nghe rõ và nhớ kỹ: "Cha thấy không, ma quỷ nói rằng hai chúng ta đang phá hoại vương quốc của nó, và chúng ta đã cướp mất của nó 20 ngàn linh hồn rồi!".
Ma quỷ nói rõ là 80 ngàn, mà nó không hề nói tới vị thừa sai, mà chỉ nói về cha sở họ Ars. Chính vì hết sức khiêm nhượng, mà thánh nhân đã nói giảm đi con số tổng kết những chiến thắng của ngài, và gán một phần nào cho vị linh mục đồng sự của ngài.
Cũng cần phải nói rằng con số mà người phụ nữ bị quỷ nhập nói ra - người phụ nữ được vị thánh của chúng ta chữa lành - không phải là tổng kết cuối cùng. Một hôm, chính cha sở Ars nói: "Chỉ một mình Thiên Chúa mơi biết tất cả những điều tốt đẹp được thực hiện ở đây!", trong khi nói câu đó, ngài chỉ vào toà giải tội của ngài. Không phải những hối nhân của ngài đều là những người trở lại, còn lâu mới được như thế, nhưng không thể chối cãi được rằng rất nhiều người ở trong đó, có thể là đa số, đã trở về với đức tin, hay ít nhất là sống một đời sống tôn giáo.
Bây giờ chúng ta hãy đưa ra những so sánh. Khi tìm hiểu sâu sát đời sống tu đức của cha sở họ Ars, ta không thể chối cãi sự thật hiển nhiên này, là ngài hết lòng yêu mến - yêu mến cách lạ lùng - sự ăn năn thống hối trong gương các vị thánh hồi xưa, đặc biệt nơi các vị thánh ở Thébaide và ở các sa mạc xứ Ai Cập. Có những bằng chứng rõ ràng cho thấy cha sở Ars có biết đời sống của các vị ẩn tu ở Ai Cập, và ngài đã tự ý trích dẫn những đoạn văn của các vị ẩn tu đó trong những bài giáo lý và trong các bài giảng nổi tiếng của ngài.
Cha Balley, thầy dạy của ngài, thường hay giới thiệu các vị thánh đó với ngài để khuyến khích ngài noi gương bắt chước. Giữa những vị thánh đó với ngài có một điểm giống nhau nữa, đó là sự quấy nhiễu của ma quỷ. Nhất là không thể không nói tới thánh Antôn Cả, ông tổ của đời sống ẩn tu, mà không nói tới những quấy nhiễu của ma quỷ mà thánh nhân phải chịu đựng. Những khách đến thăm viếng ngài trên núi Kolsim ở vùng sa mạc, hầu như không bao giờ đến mà không nghe thấy chung quanh ngài có những tiếng động lộn xộn hoà lẫn với nhau, phá tan bầu khí im lặng của sa mạc bao la, những tiếng động ghê rợn như tiếng của binh khí và ngựa: y như âm thanh của một thành bị cả một đạo quân thù nghịch bao vây. Chính những hồn ma vô hình tạo nên những tiếng động ấy, y như Con Quỷ Cào Sắt đã làm cha sở họ Ars sau đó nhiều thế kỷ.
Thánh Hilarion, một ẩn sĩ nổi tiếng khác, mỗi khi đọc kinh đều nghe thấy chung quanh ngài những tiếng cho sủa, bò rừng rống, rắn huýt sáo, hay những âm thanh khác không kém lạ lùng và ghê rợn.
Chung quanh canh chòi của thánh Pacôme, là bậc thầy của phái ẩn tu theo cộng đoàn, ma quỷ tạo ra một thứ âm thanh mà người nào nghe nó cũng có cảm tưởng mọi sự đều bị đảo lộn và phá hủy.
Chúng hiện ra chung quanh chiếc lều của thánh Abraham, tay cầm búa như thể muốn phá huỷ chiếc lều.
Những lần khác, chúng lấy lửa đốt chiếc chiếu của ngài, y như chúng đã đốt giường của cha sở họ Ars.
Và như cha Monnin nhận xét: người ta có thể đọc hết đời sống các vị thánh, ít khi người ta lại không nhận thấy trong đó có cuộc chiến đấu công khai với Satan, thường là ồn ào và gây ấn tượng sâu đậm. Cùng với ngài, chúng ta hãy kể thánh Benoit, thánh Francois d'Assise, thánh Gioan Thiên Chúa, Vincent Ferrier, Pierre d'Alcantara. Trong số các thánh nữ có thánh Marguerite de Cortone, Angèle de Foligno, Rita de Cascia, Rose de Lima, và biết bao vị khác nữa.
Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi cũng gặp rất nhiều trò ma quái ở Lộ Đức, chung quanh cô bé Bernadette khiêm nhường. Đó là những điều chúng tôi sẽ đề cập đến ở chương kế tiếp.

XEM TIEP CHUONG 2

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng con được vững lòng tin Chúa hơn.
Related Posts with Thumbnails

Tìm kiếm trên website MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Loading

Danh sách bài đã đăng