CHƯƠNG 16
TỘI TRỌNG
1. Chàng phung phá ra đi.
Một người kia có hai đứa con. Con thứ nhất đến thưa cha: "Xin cha trao phần gia tài của con cho con". Và người cha đã trao.
Khi đã gom góp tất cả, chàng tẩy đi phương xa phung phá trụy lạc (Lc 15).
Lẽ ra người cha đó nên đáp lại: "Này con phần gia tài của con, cha sẽ trao cho con ngày con trưởng thành lập nên sự nghiệp. Còn bây giờ cha chỉ phải lo lắng cơm áo cho con thôi". Người cha có thể trả lời: "Con ơi con! Sao con lại muốn bỏ cha? Con không được hạnh phúc sao? Sống bên cha con còn thiếu thốn gì nữa? Ôi! Cha hy vọng mai ngày con sẽ là cây gậy nâng đỡ cha lúc tuổi già, sẽ là nguồn an ủi cho chuỗi ngày cuối đời cha. Cha hy vọng mai ngày con sẽ đứng bên gường cha chết, để lãnh lời chúc lành cuối cùng cha ban. Cha hy vọng bàn tay con sẽ vuốt mắt cho cha và dòng lệ con sẽ đổ cha hòa trên phần mộ cha. Ôi! Con ôi! Cha đau xót biết bao! Cha xin con, vì mái tóc bạc phơ này, vì những giọt lệ đang rơi xuống trên bàn tay con, con đừng nhẫn tâm đối với tuổi già của cha. Hãy đợi một thời gian. Hãy để cha chết bình an. Hãy thương cha". Người cha có thể thốt ra những lời thảm thiết đó. Nhưng không, ông đã nhượng bộ.
Đứa con lên đường, không buồn tiếc, chàng bước ra khỏi ngưỡng cửa gia đình. Không thèm liếc nhìn lại đằng sau, không buồn đổ lấy một giọt nước mắt trên căn nhà cũ kỹ, trên người cha già buồn khổ. Chàng ra đi, đôi tay tham lam xiết chặt túi tiền, hứa hẹn trăn nghìn lạc thú mới mẻ. Ôi căn nhà đau khổ, khi phải nhìn thấy bao nhiêu gia tài sự nghiệp do tổ tiên dành dụm ngày nay tiêu tan chỉ vì lạc thú tục tằn chóng qua. Chàng ra đi muốn hưởng thụ tính tự do mình, sống độc lập, rời bỏ một người cha sẽ ngăn cản chàng không được sống thỏa ý trai, trốn khỏi một xứ có quá nhiều bộ mặt quen thuộc làm cớ buộc chàng phải sống dè dặt. Phải chăng đó là câu chuyện của người tội lỗi.
Người cha, chính là Thiên Chúa. Đứa con thứ, chính là tội nhân. Một ngày kia, căn nhà thân phụ bỗng đè nặng trên mình người trai trẻ. Chàng lỗi luật Thiên Chúa, trong việc quan trọng, với ý thức cũng như thỏa ý hoàn toàn. Chàng đã phạm tội trọng. Chàng lên đường ra đi xứ lạ, tách lìa khỏi Thiên Chúa.
Thỉnh thoảng chúng ta có nghĩ đến tội ác xấu xa thế nào không?
1) Tội trọng tấn công Thiên Chúa Ngôi Cha. Tội trọng xúc phạm đến uy quyền Ngài. Thiên Chúa chỉ huy trời đất tuân phục. Còn tội nhân, một con sâu đất, lại dám nói: "Tôi không phụng sự Ngài!. Tội nhân xúc phạm đến lòng nhân lành của Thiên Chúa Ngôi Cha. Có gì hắn có mà hắn không nhận được nơi Ngài? Không khí hắn thở, bánh trái hắn ăn, áo quần hắn mặc, thân xác, linh hồn, sự sống, tất cả đều do Thiên Chúa. Tội nhân vong ơn bạc nghĩa, quên hết mọi ơn lành để xúc phạm đến vị ân nhân. Cặp mắt hắn dùng để nhìn vào những hành động xấu xa; trí khôn, hắn hiến cho những mối tình vương vấn khốn nạn, bẩn thỉu quá!
2) Tội trọng tấn công Chúa Giêsu, Ngôi Con. Người Anh Cả của chúng ta, bạn nghĩa thiết của chúng ta, vị thủ lãnh của chúng ta. Trong linh hồn tội nhân, tội muốn đóng định Chúa Kitô khi lập lại chính những nguyên nhân đã khiến Chúa bị đóng đinh. Tội lỗi sẽ bắt buộc Người chết thêm một lần nữa như thể lần thứ nhất chưa đủ hiệu nghiệm (Hb 6:6). Đối với tội nhân, tội lỗi khiến cuộc tự nạn của Chúa Giêsu Kitô hóa nên vô ích, bởi vì tội lỗi ngăn trở hiệu quả ơn cứu chuộc trong linh hồn tội nhân. Tội lỗi khiến trái tim Chúa Giêsu phải buồn phiền thống khổ, khi trao cho ma quỷ một linh hồn đã được Giá Máu Người cứu chuộc, chỉ vì lạc thú một phút giây.
Người ta thuật lại câu chuyện hoàng tử bị ám sát. Đức vua đến bên gường thăm con và hỏi xem có thể làm được gì để giúp đỡ không? Hoàng tử thưa: "Thưa cha, cha hãy tha tội cho tên sát nhân!" Đức vua cảm động. Ngài tức tốc truyền lệnh dẫn tên sát nhân đến bên gường người hấp hối. Vừa thấy hắn bước vào, Đức vua liền bảo: "Đây, ngươi đang đứng trước nạn nhân của ngươi. Tội đó đáng chết. Chính nạn nhân của ngươi khẩn khoản xin cho ngươi được sống. Để cho người vui lòng, ta sẽ tha chết cho ngươi. Bây giờ, ngươi hãy nói cho ta biết, ngươi sẽ làm gì cho hoàng tử, nếu vết thương của hoàng tử được lành?"
Và tên sát nhân lạnh nhạt trả lời: "Tôi sẽ giết thêm một lần nữa!"
Đó cũng chính là lời nói của kẻ phạm tội trọng. Hắn không nói bằng môi miệng, nhưng bằng lòng trí, bằng hành vi. Có thể nói, hắn đóng đinh con Thiên Chúa lại lần thứ hai, Đấng đã dùng cái chết để cứu hắn khỏi phải chết.
3) Tội trọng tấn công Chúa Thánh Linh. Ngôi Ba. Khi ban Bí Tích Thanh Tẩy, vị linh mục bảo: "Hỡi thần dư dáy, xéo đi, nhường cho Thánh Linh Thiên Chúa". Tội nhân đảo ngược lại chính lời nói đã biến hắn thành người Kitô hữu: "Hỡi Thánh Linh Thiên Chúa, hãy xéo đi, nhường chỗ cho thần dơ dáy!" Chúa Thánh Linh cư ngụ thật sự trong linh hồn chính nhân, tựa hồ trong một ngôi đền. Còn tội nhân, tội nhân không ngần ngại xúc phạm đến không phải là một đền thờ bất động, một thánh đường bằng đá, nhưng là một đền thờ sống động, tức là linh hồn hắn.
2. Chàng phung phá khánh tận...
Khi chàng thanh niên đã phung phá hết gia tài, cũng là lúc đói kém khinh khủng nổi dậy hoành hành khắp vùng, chàng bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Chàng đi giúp việc một người trong xứ và được họ trao công tác nuôi heo, chàng ao ước được ăn cám heo, nhưng cũng chẳng có mà ăn. (Lc 15).
Nỗi khốn khó của chàng trai hoang tàn tượng trưng cho nỗi thống khổ của người tội lỗi.
Đâu là hậu quả của tội lỗi? Tội trọng làm mất ơn Thánh Sủng trong chúng ta. "Ơn Thánh Sủng trong một linh hồn còn đáng giá hơn cả vũ trụ" (Thánh Tôma). Chúng ta phải nói sao về việc này đây? Mất ơn Thánh Sủng còn thiệt hại hơn mất cả những gì quí hóa nhất trong vũ trụ.
Bạn hãy nghĩ tới chiếc bóng điện. Tội trọng cắt đứt dòng điện: đèn phụt tắt. Bạn hãy nghĩ đến thân xác con người. Tội trọng cắt đứt mạch máu chuyển thông: chi thể chết đứng. Bạn hãy nghĩ đến cây nho. Tội trọng chặn đứng dòng nhựa lưu thông: cành nho bị khô héo.
1) Ơn thánh sủng ban cho linh hồn trở nên thánh thiện, công chính, đẹp lòng Chúa. Tội trọng khiến linh hồn trở nên ghê tởm trước tôn nhan Thiên Chúa. Bạn hãy tập trung những quái vật giữa loài người và thú vật; bạn hãy chồng chất bệnh hoạn, ôn dịch, phong hủi...phải chăng đây là vẻ ghê tởm của một linh hồn sống trong tình trạng trọng tội? Linh hồn còn gớm ghiếc hơn nhiều. Khi thấy ma quỉ hiện hình, thánh Catarina thành Sienna đã la lớn: "Tôi thà đi chân không trên than hồng lửa bỏng suốt đời còn hơn là thấy lại con quái vật đó". Thế mà, linh hồn tội lỗi cũng khủng khiếp như quỉ đấy.
2) Ơn thánh sủng biến chúng ta thành đền thờ Thiên Chúa ba Ngôi chí thánh. Tội trọng đuổi Chúa ra khỏi linh hồn.
Có một vụ trộm cướp phạm thánh đã xẩy ra trong một ngôi thánh đường. Nhiều nhân vật vô lương tâm dám bẻ cửa đền thánh và đập phá nhà tạm. Quân cướp tóm lấy bình thánh có chứa Mình Thánh Chúa Kitô và mang đi như thể một món đồ kim khí tầm thường. Phạm thượng! Cử chỉ của người tội lỗi còn bi đát hơn. Khi phạm tội trọng, tội nhân xua đuổi Chúa, không phải là ra khỏi một ngôi đền chết, một thánh đường bằng đá, nhưng là một đền thờ sống động, linh hồn mình.
Một hôm, một nhà thờ nơi Chúa ngự trị đã bao năm trường "được" biến thành một viện bảo tàng trần tục. Ngọn đèn trước kia tỏa sáng trước nhà tạm, giờ đây đã biến mất. Nơi trước kia là bàn thờ và nhà tạm, giờ đây qua ánh sáng chiếu từ các khung cửa kính người ta chỉ còn thấy những mảnh vụn tồi tàn của những tượng điêu khắc hay những bia đá trên mộ. Người đặt chân tới đây, giờ đây không còn cất mũ bái chào nữa. Không còn bái quì để thờ phượng Chúa nữa. Linh hồn sống trong tình trạng tội trọng cũng giống như một ngôi thánh đường bị xúc phạm. Thiên Thần không còn theo linh hồn đó khắp nơi để thờ lạy Chúa nữa. Chỉ có ma quỉ mà linh hồn đã quý chuộng hơn Thiên Chúa. Khi Giuđa phản bội Thầy, Satan đã làm gì? Satan đã xâm nhập vào linh hồn ông. Satan cũng vào mỗi linh hồn phạm tội trọng. Dĩ nhiên Satan không nhập vào đó với tất cả "lập hữu" (subsistance) của nó, nhưng thật sự nhập vào bằng cách hậu quả "quỉ tính" bằng các tư tưởng xấu xa nó khêu gợi ra, các hành vi tội ác nó cám dỗ và thúc đẩy tội nhân thực hiện. Satan định cư ở đó. Satan chỗi dậy cùng với tội nhân, kè kè bên cạnh tội nhân khi làm việc, lúc đi đường, khi đến nhà thờ, rồi lẽo đẽo theo khắp nơi. Linh hồn đó là một sào huyệt cho bọn quỉ dơ dáy nương thân.
3) Ơn thánh sủng biến chúng ta nên con cái Thiên Chúa: Anh em, bạn hữu và chỉ thể sống đống của Chúa Kitô, con cái của Mẹ Maria, anh em với các Thánh, các thiên thần và của mọi người công chính tại trần gian. Tội trọng biến chúng ta thành những địch thù với Thiên Chúa và nô lệ cho ma quỷ. Thiên Chúa ghét tội lỗi, tạo sao? Vì tội lỗi xúc phạm đến toàn hảo của Ngài, xúc phạm đến chính Ngài, nếu Ngài không ghét tội, Ngài sẽ không còn phải là Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa ghét tội như thế nào? Bằng một sự thù ghét vô biên. Bạn hãy dùng trí tưởng tượng cộng hết mọi sự thù ghét của loài người, của ma quỉ, rồi đem nhân gấp trăm, ngàn vạn lần. Như thế vẫn chưa bằng sự thù ghét của Thiên Chúa đối với tội trọng. Người tội lỗi sẽ tìm thấy bạn hữu ở đâu? Ở trên Thiên Đàng ư? Làm gì có? Tất nhiên Thiên Chúa ghét tội lắm rồi; các thần thánh với mối dây kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa tốt lành nên cũng ghét cay ghét đắng tội lỗi. Ở dưới trần gian này ư? Cũng không. Người lương thiện tự nhiên có ác cảm với những người gian ác; ngay cả người xấu cũng khinh dể chúng. Trong hỏa ngục ư? Đừng hòng. Quỷ dữ chỉ muốn đầy đọa họ. Người tội lỗi chẳng tìm đâu ra được bạn hữu cả. Phải. Họ sẽ còn tìm gặp anh em chị em, song là giữa đám ma quỉ giữa đoàn người trầm luân, giữa đống cặn bã của nhân loại: quân vô đạo, phạm thượng, sát nhân, rượu chè, trụy lạc, trộm cướp: tất cả mọi phường gian ác thế giới đã cưu mang ngay từ nguyên thủy.
4) Ơn Thánh Sủng biến chúng ta thành những người thừa kế nước trời. Tội trọng khiến chúng ta đáng lãnh hình phạt hỏa ngục. Không cải tà quy chánh, đời đời bạn sẽ không bao giờ được nhìn thấy dung nhan Thánh Chúa, bạn sẽ đau khổ vì lửa thiêu đốt, đau khổ vì lương tâm cắn rứt, đau khổ vì tuyệt vọng.
5) Ơn Thánh sủng cho linh hồn có khả năng lập nên công nghiệp. Tội trọng tiêu hủy mất mọi công nghiệp đã tích trữ. Dầu bạn có được mọi công nghiệp của tất cả các Thánh Tông Đồ và tử đạo, chỉ một tội trọng thôi cũng đủ hủy diệt tất cả. Linh hồn là một lâu đài nguy nga bị tàn lụi dưới ngọn lửa. Tội trọng cướp mất khả năng lập nên công mới. Bạn hãy phát cả gia tài sản nghiệp cho người nghèo khó đi; bạn hãy chinh phục cả thế giới đi; bạn hãy lao thân vào biển lửa đi: mọi việc đó đều vô ích, nếu bạn còn sống trong tình trạng tội trọng.
6) Ơn Thánh Sủng đem lại an bình và hoan lạc. Tội trọng hành hạ, vò xé linh hồn bằng sự cắn rứt trong lương tâm. Tội trọng nô lệ hóa linh hồn. Khi tội nhân lao mình theo tiếng gọi dục tình, họ tự phụ khi dừng bước giữa đường hoặc ít ra, khi tránh được sự thái quá. Nhưng một khi họ tuột xuống con dốc phũ phàng. Sự choáng váng càng ngày càng đưa họ xa Thiên Chúa, chìm sâu hơn trong vũng lầy. Bossuet nói: "Một khi đã bị giác quan lôi cuốn và bị men rượu thôi miên, lý trí sẽ không còn sức tự trách nhiệm về mình cũng như không thể biết cơn say sưa sẽ đưa mình đi đâu...! Đời sống nhục dục là gì khác nếu không phải là một luân phiên từ say mê đến ngao ngán và từ ngao ngán đến say mê, còn linh hồn thì luôn luôn bất định giữa cơn sốt đang dịu lại và cơn sốt đang bùng phát!" "Tội lỗi giống như nước mặn ngoài biển, mà người đắm tàu nuốt vào miệng để giải khát, nó chỉ tổ làm cho cơn khát càng thêm gay gắt". Đúng thế! "Không có an bình cho người bất lương" (Is 48:22).
Hậu quả của tội lỗi như thế đó. Đây chúng tôi xin trình bày chung dưới một hình thức cụ thể hơn. Quỉ hiện ra với bạn và bắt bạn ký bản giao kèo sau đây: "Tôi ký tên dưới đây. với ý thức đầy đủ và đồng ý hoàn toàn, tôi long trọng tuyên bố từ bỏ hết mọi của cải của tôi có: Sự sống linh hồn, vẻ đẹp linh hồn, chức vị làm con Thiên Chúa, làm anh em, bạn nghĩa và chi thể sống của các thánh trên trời và mọi người lành dưới thế, làm đền thờ Chúa Thánh linh và Ba Ngôi Thiên Chúa, làm kẻ thừa kế nước trời. Mọi công nghiệp tôi đã lập được và sẽ lập, sự bình anh lương tâm. Tôi trao phó trọn xác hồn tôi cho ma quỉ và tôi muốn bị thiêu đốt với nó đời đời trong hỏa ngục.
Ký bản tuyên ngôn đó đi! Quỉ bảo thế. Ồ bạn run ư, bạn lùi bước ư? Chính bạn, khi phạm một tội trọng, bạn ký tờ giao ước ác ôn đó, không phải trên giấy trắng với mực đen, nhưng thật sự tự tay ký tờ giấy đó trong cuốn sách "Lương tâm" bạn.
CHƯƠNG 17
XƯNG TỘI
1. Chàng phung phá hồi tâm.
Bị cùng quẫn, người con hoang đàng bắt đầu suy nghĩ và thở than: "Tại nhà cha mình, biết bao đầy tớ được cơm ăn dư thừa! Còn mình ở đây, lại bị chết đói! Thôi ta chỗi dậy, trở về nhà cha và thưa với người: Thưa cha con đã phạm tôi nghịch với trời và với cha. Con không đáng được gọi là con cha nữa, hãy xem con như một tên làm mướn cho cha. Rồi chàng chỗi dậy, tìm về nhà cha mình. (Lc 15) Chàng hối hận vì đã bỏ cha ra đi. Chàng ăn năn.
1) Muốn được lại ơn thánh sủng, bạn cũng phải có lòng ăn năn các tội, như chàng thanh niên phung phá kia.
Nhiều người quá lo xét mình kỹ lưỡng. Thường nhiều lần xưng tội không đem lại kết quả không phải vì lý do xét mình không đầy đủ, nhưng là do sự thiếu thành thật, và thường, hơn nữa là vì do thiếu ăn năn thống hối.
Đọc ngoài miệng kinh ăn năn tội đâu đã đủ, tâm tình bên trong cần phải phù hợp với lời phát bên ngoài. Muốn được thế, bạn kêu xin Chúa ban cho ơn ăn năn tội, vì thuộc bình diện siêu nhiên, nên việc ăn năn tội hiệu quả của ơn thánh. Phần bạn, bạn hãy hết sức để kích thích bạn ăn năn hối cải, vì bạn phải cộng tác với ơn thánh. Bạn hãy suy nghĩ vẻ hoàn hảo, nét tuyệt mỹ của Thiên Chúa mà bạn đã xúc phạm, lòng nhân hậu, tình êu yếm của người Cha mà bạn đã làm Người phải khổ đau. Bạn hãy nghĩ đến những sự thương khó và cái chết của Chúa Giêsu mà bạn đã lấy tội lỗi đóng đinh Người. Với óc tưởng tượng, bạn hãy xuống hỏa ngục để suy gẫm về nơi bạn đáng bị và về những cực hình ngàn thu dàng riêng cho bạn, nếu bạn không thay lối đổi đường. Bạn chớ vào Tòa giải tội khi bạn chưa thật lòng ăn năn hối lỗi, bạn có cách tốt nhất, để khi cha giải tội, là bạn có một lòng ăn năn hết lòng.
Ăn năn tội không phải chỉ là đau đớn vì đã xúc phạm đến Chúa trong dĩ vãng. Chàng thanh niên phung phá đã không tiếc nuối suông. Chàng nói: "Tôi sẽ chỗi dậy, tôi sẽ về nhà cha tôi". Ăn năn tội, cũng chính là sự dốc quyết từ nay về sau không còn làm mất lòng Chúa nữa. Mà không thể có sự dốc quyết, do đó không có ăn năn thật lòng, nếu không quyết định tránh xa dịp tội tự ý đưa đến tội trọng, nếu không tha thứ cho anh em đồng loại, nếu không buộc kẻ khác chấm dứt hoặc đến bồi một gương xấu công khai, nếu không đền bồi, khi có thể, mọi sự thiệt hại đã gây cho tha nhân.
Nếu sau đó lại sa ngã nữa thì trước kia chúng ta có dốc lòng thật không? Có, nếu lúc đó chúng ta đã nhất quyết sẽ không phạm tội trọng làm mất lòng Chúa nữa.
Chúng ta có nên thất vọng nếu tái phạm không? Không. Phải làm gì? Phải vùng dậy ngay, mỗi khi bị vấp ngã.
Tướng Mông cổ Tamerlan đã nhiều lần thất bại chua cay trên chiến trường. Ông cho họp hội đồng chiến tranh. Mọi người thảo luận. Thôi đánh giặc ư? Hay phải tiếp tục chiến đấu? Tình cờ, Tamerlan nhìn thấy con kiến đang bò lên mép lều của ông. Lên đến một độ cao, không hiểu sao bỗng con vật tí hon lăn nhào xuống đất. Nó lại leo lên, rồi lại ngã, lại leo lên, lại ngã. Mười lần liên tiếp. Thôi nói hết té rồi. Tamerlan cho đó là một dấu tượng trưng nên tiếp tục chiến đấu. Ông tấn công dịch: thất trận ông lại bắt đầu lại. Và vẻ vang đã về tay ông. Bạn ngã ư? Đứng dậy đi. Mỗi lần như thế, bạn hãy lập lại lời dốc quyết trong một những lần sa ngã đó sẽ là lần cuối cùng. Chiến thắng chỉ đến với những người nào bền tâm vững chí.
Bạn hãy can đảm tra tay vào việc, Godefroid de Bouillon đã tấn công tường thành Giêrusalem tới hai mươi nhăm lần...Vô hiệu, tướng sĩ của ông, thất vọng, ca thán: "Chẳng được đâu! Ông đáp lại: "Được chứ"..."Phải được mới thôi! Và sẽ xẩy ra như thế! Ai là người can đảm hãy theo tôi!" Rồi cùng với ông leo lên bực thang đã dựng sẵn. Lần này là lần thứ hai mươi sáu đây. Và Giêrusalem đã thất thủ. Chiến thắng chỉ về tay những ai vững chí bền tâm.
Có một người mắc tật say rượu. Ông muốn dứt bỏ, nhưng gặp nhiều khó khăn trong dự định này. Ông bắt đầu bằng cách ném một viên sỏi nhỏ tí vào ly rượu của ông. Ngày hôm sau ông ném hai viên và cứ tiếp tục thế mãi. Thế là ông không ngờ mình đã học được đức tính điều độ. Chiến thắng chỉ dành cho những ai gan dạ vững bền.
2) "Tôi sẽ thưa với cha tôi: Lạy Cha con đã lỗi phạm với Trời và với Cha". Muốn lấy lại ơn thánh, chúng ta phải cáo các tội chúng ta, giống như chàng thanh niên phung phá.
Xưng tội, phải đơn sơ, bạn hãy cáo tội mình như một em bé, không phải chải chuốt văn chương. Bạn hãy noi gương người bệnh kể lể niềm đau đớn. Vạch trần các vết thương cho vị bác sĩ cảm thông. Muốn thế, bạn hãy kêu gọi đức tin của bạn. Nhìn vị giải tội, bạn hãy chỉ thấy có Chúa Giêsu Kitô thôi. Vị Linh mục chỉ làm người giải tội để tỏ lượng khoan hồng tha thứ. Như bạn, ngài cũng phạm tội, và biết rằng chính ngài cũng cần được khoan hồng dung thứ.
Khi xưng tội, bạn đừng cáo tội kẻ khác. Có một thiếu phụ kia, vì muốn chữa mình, nên đã tố cáo chồng bà. Cha giải tội đã bắt bà làm việc đền tội như thế này: Đọc ba kinh lạy cha để đền tội mình và lần ba tràng Mân côi để đền tội chồng.
- Sao được? Chồng con phạm tội, thì chồng con phải đền tội chứ cha.
- Nhưng chính bà đã cáo các tội đó ra. Từ nay về sau, bà chỉ nên cáo các tội riêng của bà thôi (Scherer).
Xưng tội, phải trọn vẹn. Bạn phải cáo hết mọi tội trong mà sau khi xét mình kỹ lưỡng bạn đã tìm ra, và thêm con số lần phạm tội, cũng như các trường hợp cần thiết.
Nếu khi xưng tội, chúng ta tự ý bỏ sót một tội trọng, thì kết quả sẽ ra sao?
a) Sẽ phải sống vĩnh viễn trong lo âu. "Người sống với một tội trọng đã bỏ không xưng trong Tòa giải tội, là người mang một ngục thất, hay đúng hơn, mang hỏa ngục trong lương tâm mình" (Thánh Gioan Kim Ngôn).
b) Sẽ phải chết trong tình trạng không ăn năn. Bạn nói: "Sau này tôi sẽ cáo tội đó". Nhưng khi tội bạn đã chồng chất lên nhau, liệu bạn có dám xưng ra không? Hoặc bạn sẽ nói: "Trước khi chết sẽ xưng". Nhưng lúc đó liệu bạn có đủ can đảm để tiết lộ cả một đời ô trọc và phạm thượng, có lẽ với một linh mục mà bạn không còn tự do lựa chọn nữa không?
c) Tới ngày phán xét chung, sẽ phải xấu hổ trước mặt mọi người ,và phải sa hỏa ngục đời đời. Bạn hãy giả thiết Thiên Chúa bạn cho một linh mục ơn đọc thấy trong lương tâm bạn, rồi Ngài lên toà giảng rao cho mọi người hay các tội ác bí mật đời bạn. Xấu hổ biết bao! Mắc cỡ biết mấy! Bạn sẽ bảo các vách nhà thờ: "Ngã xuống đi! Hãy đè bẹp ta đi!" Nhưng sẽ tới ngày không chỉ trước mặt một đám giáo hữu tụ tập trong nhà thờ, mà là cả trước mặt mọi người, mọi thiên thần và mọi quỉ dữ.
2. Chàng phung phá trở về.
Chàng còn mãi tít đàng xa, nhưng từ trên sân thượng, cha chàng đã thấy bóng. Xúc động quá, người vội chạy xuống ôm choàng lấy con và hôn lấy hôn để. Đứa con ấp úng: "Lạy cha, con đã phạm tội nghịch với Trời và với Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng cha chàng không để chàng nói hết câu. Người đã quát bảo đầy tớ: "Nhanh lên hãy đem chiếc áo đẹp nhất ra đây, mặc cho nó, xỏ nhẫn vào tay cho nó, và giầy vào chân nó, rồi đi bắt con bê béo giết đi! Ta phải ăn mừng, này con ta đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm được". Rồi họ cùng hát xướng ăn mừng (Lc 15).
Người xưng tội nên cũng được Chúa tiếp đón như vậy.
1) Chúa bắt cởi áo rách. Phép giải tội tha các tội, tha án phạt đời đời và ít là một phần các hình phạt tạm.
2) Chúa cho mặc chiếc áo đẹp nhất và kêu lên: "Con ta đã chết giờ đây được sống lại". Phép giải tội trả lại ơn thánh sủng, các nhân đức siêu nhiên và các ơn sủng Thánh Linh.
Linh hồn bạn trước đây đã chết khô, bây giờ sống lại đời sống thần linh. Linh hồn bạn, trước đây đen đủi xấu xa, giờ đây được tẩy trong Máu Con Chiên, được gột sạch nên trắng như tuyết, công chính và thánh thiện đẹp đến say mê cả như Thần Thánh và chính Thiên Chúa nữa. Trước kia bạn run rẩy trước dung nhân Chúa, sợ án xét xử của Ngài, lo phải xa hỏa ngục, giờ đây Ngài cho phép bạn ngước mặt giơ tay lên trời, gọi Ngài bằng chính tên dịu dàng "CHA". Bạn thuộc họ hàng Ngài: Là anh em, bạn hữu và chi thể sống động của Chúa Kitô, là con thật Mẹ Maria, là anh em với thần thánh trên trời cũng như của các chính nhân trong luyện ngục và tại thế, là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, là người thừa hưởng nước Thiên Đàng. Phép giải tội, ôi công trình kỳ diệu của quyền phép Thiên Chúa! Thánh Tôma nói: "Trả lại ơn thánh sủng, đó là một công trình vĩ đại hơn là tạo dựng trời đất!".
Đối với những ai lãnh nhận bí tích giải tội khi linh hồn còn trong tình trạng ơn thánh, bí tích giải tội tăng thêm ơn thánh, các nhân đức và ơn sủng của Chúa Thánh Linh. Trong người tội lỗi, ơn thánh sủng được phục hồi. Bạn hãy nghĩ tới chiếc bóng điện: dòng điện đi qua đi lại, là đèn sáng rực, bạn hãy nghĩ đến thân thể: máu lưu thông được là chi thể đã chết được cải tử hoàn sinh. Bạn hãy nghĩ đến cây nho: nhựa bắt đầu đi lên và làm cho cành chết được trở lại tươi tốt.
3) Thiên Chúa trả lời các quyền lợi trong gia đình. Phép giải tội hoàn lại các công nghiệp do các việc thiện đưa lại. Đối với người lành, phép này ban thêm công trạng. Xâm nhập vào linh hồn, ơn thánh sủng tức khắc làm chỗi dậy các tài sản thuộc quá khứ mà tội trọng đã đập phá ra tro bụi. Linh hồn thay hình đổi dạng tựa hồ cây nọ tưởng chết dưới lớp băng giá mùa đông, thình lình đâm trồi nẩy lá, trổ hoa, sinh quả, giống như xác kia ngã ra bất tỉnh, bỗng nhiên tìm lại được sự sống và chuyển động.
4) Thiên Chúa cho mang giầy mới để chúng ta đi lại dễ dàng. Phép giải tội ban cho linh hồn những hiện sủng bí tích, giúp chúng ta đền bồi tội lỗi và không còn dám tái phạm.
5) Thiên Chúa bảo: "Ta hãy ăn mừng!" Sự xưng tội làm Chúa và các Thần Thánh hài lòng. "Một người tội lỗi cải tà quy chánh làm cho Thiên Đàng hân hoan vui sướng hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải cải hóa". (Lc 25:7). Ngày tội nhân trở về phải là cho mọi chính nhân vui mừng. Người anh cả trong bài dụ ngôn quả quyết mình chưa hề có sai lệnh cha già lần nào. Đồng ý. Nhưng anh đã thuộc vào thành phần những người Công giáo có cái nhìn thiển cận. Họ không hiểu nổi mầu nhiệm từ bi của Thiên Chúa. Họ cư xử giống hệt tiên tri Giona. Thiên Chúa tha thứ cho dân thành Ninivê, tội lỗi nhưng biết hối cải ăn năn. Tiên tri Giona kinh ngạc. Chúa Giêsu đã phán những lời này với người biệt phái: "Những kẻ khốn cùng và người thiếu nữ lạc đường sẽ vào Nước Trời trước các ông" (Mt 21:31). Họ bất bình, có những giáo hữu tức tối vì lượng khoan hồng của Chúa Cứu Thế, của Giáo Hội và của các thừa tác viên đối với người tột lỗi. Họ quên rằng dù phạm tội, tội nhân là và vẫn con là anh em với các chính nhân. Người công chính phải yêu thương đùm bọc người tội lỗi ngay trong lúc họ lầm đường lạc lối và phải niềm nở tiếp đón khi họ quay gót trở về. Vì sự hối cải cũng là một đức tính cao quý. Sau sự trung tín, không còn gì đẹp hơn sự hối cải. Người cha già trong bài dụ ngôn thật tình yêu đứa con hoang đàng, những mỏi mòn trông con trở về, chạy đến hôn con, ôm con và hôn con không ngừng. Trong nháy mắt người đã hoàn lại cho con tất cả mọi quyền ưu tiên của con. Phải, Giáo Hội hát lên những khúc hân hoan và cảm kích để tán dương vinh quang của các linh hồn trong trắng được Chiên Tinh Sạch dẫn theo khắp chốn và sẽ làm thành đoàn tuỳ tùng cho Đức Nữ Trinh Thai trước ngai vàng Thiên Chúa. Nhưng, đồng thời, Giáo Hội, cũng sướng vui mừng lễ các Thánh đã sống đời lầm lỗi. Bên cạnh nét trinh trong được bảo toàn, Giáo Hội ca tụng vẻ ngây thơ được tái chiếm.
Sự xưng tội làm cho hối nhân vui mừng, Đúng, an ủi biết bao khi chúng ta đã xưng tội xong! Lương tâm cắn rứt, sự sợ chết trong tình trạng tội lỗi, các tội cứ đeo đuổi như cơn ác mộng, tất cả đều tan ra mây khói. Chúng ta thở phào một cách nhẹ nhõm sung sướng. Ai mà không cảm thấy tâm hồn khoan khoái khi bước chân ra khỏi Tòa giải tội!
Henri Ghéon, một người đã trở về với Giáo Hội trong thời đại chiến vừa qua, khi tường thuật chuyện mình cải giáo, đã viết: "Hai tay ôm đầu, miệng tôi bập bẹ, tôi để cho dòng tội lỗi thoát ra như thác. Tôi cáo chúng đến đâu, chúng tan biến, chúng từ bỏ tôi đến đấy, hễ cáo là được tha ngay. Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm lại từng ngụm, trào ra khỏi tim tôi. Với tất cả khối nặng tù hãm đó, với tất cả chất độc đó trong các thớ con tim, làm sao tim tôi còn có thể đập được? Tôi đã trao tất cả cho một người, và Thiên Chúa đã nghe lời tôi! Hãy đi bình an! Tôi trẻ lại hai mươi năm, hai mươi năm tội lỗi! Một nỗi hân hoan khoan khoái mới lạ xâm chiếm tôi. Tôi chạy! tôi bay, tôi không còn cảm thấy thân xác tôi nữa".
Người công giáo nào đã xưng tội kỹ lưỡng đều bước chân ra khỏi Tòa giải tội với niềm xác tin rằng mọi tội mình đã được tha thứ. Nhưng anh em bên thệ phản? Trong nhiều năm nữa, họ vẫn còn tự nhủ: "Tội tôi đã được tha chưa nhỉ? "Có lẽ ngay trên giường chết, họ vẫn còn đặt câu song quan luận: "Tôi là kẻ được chọn hay người bị trầm luân? "Gargensen, người Đan Mạch, đã quy lại theo Công Giáo, cố tuyên bố: "Tôi đã du lịch khắp Âu Châu, trong các quốc gia miền Bắc, không nơi nào tôi thấy những linh hồn cởi mở vui sướng. Tôi chỉ tìm thấy niềm hân hoan các Quốc gia Công giáo. Đấy, hiệu quả của việc xưng tội đấy!"
Từ nhiều năm qua, một nhà chủ quán người Đức cảm thấy lương tâm mình nặng nề quá. Được ơn thúc đẩy, ông quyết định dứt bỏ tình trạng đó. Ông chạy đến gặp Cha Hofreuter, một linh mục đầy kinh nghiệm trong nghệ thuật đưa các linh hồn tội lỗi về cùng Chúa. Ông thắng ngựa rồi ra đi. Đến trước cửa nhà linh mục, ông bỗng cảm thấy xấu hổ và không có đủ can đảm ấn nút chuông. May mắn chính lúc đó linh mục từ bên trong bước ra cất tiếng hỏi ông với một giọng đầy thân ái: "Bạn đến xưng tội đấy phải không? ...Được, tôi sẵn sàng giúp bạn!" Xưng tội xong, viên chủ quán nhảy lên ngựa, vui mừng, tim đập nhẹ nhõm. "Thôi ngựa yêu quí của ta ôi, đi đi! Bây giờ mi được chở nhẹ bớt một trăm ký rồi đấy!"
Sáu năm sau, nằm trên giường bệnh, sau khi nhận lãnh các bí tính cuối cùng, ông cho mời Cha Xứ tới và thưa: "Sau khi con qua đời, xin cha làm ơn nói lại với vị linh mục đã giải tội cho con biết, từ ngày con trở lại, con không còn phạm tội trọng nào nữa, mà ngay một tội nhẹ có ý con cũng không hề dám". Lương tâm được nhẹ bớt một trăm ký: Mọi tội nhân đều có quyền nói như thế sau khi đã xưng tội nên.
CHƯƠNG 18
ĂN NĂN TỘI CÁCH TRỌN
1. Một vấn đề quan trọng
Một trong hai tên sát nhân bị đóng đinh cạnh Chúa Giêsu trên đồ Canvê thưa với Người: "Thưa Ngài, khi nào vào nước Ngài, xin Ngài thương nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, tôi nói với anh, chính ngày hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng" (Lc 23). Thánh Âu Tinh than thở: "Ôi trên trộm có phúc, ngươi đã ăn trộm suốt đời ngươi và khi sắp chết, ngươi lại ăn trộm được cả nước trời". Giống như người ăn trộm có phúc này, chúng ta có thể tìm lại được ơn thánh trong giấy lát, nhờ ăn năn tội cách trọn.
Madalêna, người thiếu phụ tội lỗi công khai đã quỳ gối dưới chân Chúa Giêsu âm thầm dùng nước mắt tưới chân Người rồi lấy tóc lau khô. Nàng hôn chân Người, xức thuốc thơm cho Người. Chúa Giêsu đã bênh vực cho người nữ tội nhân trước mặt anh biệt phái Simon. Chúa bảo: "Các tội vô số của nàng được tha hết, bởi vì nàng đã yêu nhiều". Rồi Người quay bảo Madalêna: "Tội con đã được tha...Đức tin đã cứu con, con hãy về bình an" (Lc 7). Giống như Madalêna, tội lỗi chúng ta có thể được tha thứ trong giây lát nhờ đức ái hoặc lòng thống hối ăn năn trọn hảo.
Lòng ăn năn trọn hảo. Than ôi, nhiều người Công giáo lại không biết đến. Mà biết ăn năn trọn hảo, lại là môt việc thật quan trọng!
"Một phương thế cứu rỗi vĩ đại", đó là cái trên thánh Anphongsô Ligouri đã đặt cho cuốn sách người viết về sự cầu nguyện. Lòng tin người đặt nơi hiệu lực cứu rỗi của lời cầu nguyện mãnh liệt, đến nỗi người ước ao được thấy quyển sách nhỏ nằm trong tay mọi người. Về sự ăn năn tội cách trọn, chúng ta có thể nói một cách chí lý rằng nói là "phương thế cứu rỗi vĩ đại nhất" vì việc ăn năn tội sẽ cứu chúng ta dễ dàng hơn là sự cầu nguyện.
Đức Hồng Y Franzelin, một nhà thần học xuất chúng lại đạo đức, một hôm đã nói: "Nếu tôi được phép đi vòng quanh thế giới, thì đề tài giảng thuyết tôi yêu chuộng nhất sẽ là vấn đề ăn năn tội trọn". Đối với biết bao nhiêu tội nhân sống trước ngày thành lập Bí tích giải tội, thì sự ăn năn tội trọn hảo là phương thế duy nhất để được cứu thoát. Ngày nay, nó vẫn còn là phương thế duy nhất cho tất cả mọi tội nhân sống ngoài Giáo Hội Công Giáo. Phương thế duy nhất cho những người Công Giáo còn trong vòng tội trọng khi họ đến giờ chết mà không thể xưng tội được.
Ăn năn tội trọn là gì? Là đau đớn vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng trọn lành vô cùng. Lòng đau đớn đó xuất tự tình yêu hoàn hảo đối với Thiên Chúa.
Ăn năn tội trọn hảo có khó không? Ngàn lần không! Dễ lắm! Chỉ cần thầm đọc kinh ăn năn tội hay thầm nói trong lòng: "Lạy Chúa, con yêu mến Chúa".
Ăn năn tôi trọn có hiệu quả nào đặc biệt không? Ăn năn tội trọn tự sức có thể tha tội mà không cần phải xưng tội. Nhưng có cần phải xưng lại các tội trọng đã được nhờ ăn năn trọn hảo không? Cần, vì Giáo hội dạy phải xưng hết mọi tội trọng.
2. Phải ăn năn tội trọn hảo nào?
1) Mỗi khi bạn lỡ phạm một tội trọng. Tội trọng, là sự sụp đổ toàn diện.
Tội trọng cướp mất ơn thánh, cướp mất quyền vào nước Trời, cướp mất bao công nghiệp đã lập được và khả năng lập nên công mới. Sống trong tình trạng tội lỗi, là sống thừa, sống vô ích. Ăn năn tội trọn sẽ hoàn lại cho bạn tất cả, Ơn thánh các công nghiệp trước, và còn cho phép bạn lập thêm nhiều công trạng mới.
2) Mỗi tối, trước kh đi ngủ, ăn năn tội trọn tẩy sạch mọi tội nặng nhẹ đã phạm trong ngày. Ăn năn tội trọn gìn giữ bạn khỏi phải cái ngạc nhiên đau đớn: Bạn có thể chết ban đêm. Nếu thần chết đến viếng thăm bạn khi bạn còn đang trong tình trạng tội lỗi, thì lúc tỉnh dậy, bạn đã nằm trong hỏa ngục rồi.
3) Khi ở vào trường hợp "nguy tử" (có thể chết). Có thể lúc đó bạn còn sống trong tình trạng tội trọng mà không có một linh mục ở đó để giải tôi cho bạn. Khi đó, ăn năn tội trọn là phương thế duy nhất và cuối cùng để cứu bạn. Cũng có thể khi nằm trên giường liệt, bạn lại phạm một tội phạm thánh. Vị linh mục đã về mất rồi, vài phút nữa, linh hồn vô phúc của bạn sẽ ra trước tòa Chúa. Bạn có thể cứu nó nữa được không? Được, nhờ ăn năn tội cách trọn.
Đây, một linh mục tự kể về mình: "Một hôm, tội gặp một cơn nguy hiểm cấp bách, chỉ còn độ tám, chín giây đồng hồ, nghĩa là thời giờ đọc được nửa kinh lạy Cha. Trong giây phút ngắn ngủi đó, trăm ngàn ý nghĩ vượt qua trí tôi, trọn cuộc đời tôi xuất hiện trước mắt nhanh không tưởng, cùng với ý tưởng việc sẽ xẩy ra cho tôi sau khi chết. Tôi xin lập lại, điều đó xẩy ra trong khoảng thời gian đủ để đọc nửa Kinh Lạy Cha. May thay tôi được bình an. Thiên Chúa đã muốn tôi xuất bản quyển sách tôi viết về việc ăn năn tội trọn. Vâng! Trong cơn nguy hiểm tột độ đó, việc đầu tiên tôi làm là thực hiện điều sách giáo lý đã dạy: là ăn năn tội cách trọn hảo và chạy đến cùng Chúa kêu xin Người che chở phù hộ. Quả thật, chỉ lúc bấy giờ tôi mới biết yêu mến và quý trọng đúng mức việc ăn năn trọn hảo. Từ hôm đó, bất kỳ ở đâu, mỗi khi có cơ hội, tôi đều rao giảng để mọi người được biết và quý trọng sự ăn năn tội trọn hảo"
Bạn sẽ nói: "Nếu đúng thế, thì tôi chẳng cần phải lo sửa mình làm gì?. Vì chỉ cần ăn năn tội trọn hảo khi nằm trên giường chết cũng đủ để được rỗi cơ mà! "Này bạn, ai bảo đảm với bạn rằng đến giờ sau cùng đó bạn sẽ trở lại? Bạn có thời giờ trở lại chăng? Bạn sẽ được ơn phi thường để lại không? Bạn sẽ có lòng muốn ăn năn tội trọn hảo không? Tôi không biết, chỉ có một điều chắc chắn là: những cuộc trở lại đến giờ sau hết thật hiếm; thường sống nào chết vậy. Vậy bạn nhận lấy lời khuyên tối khôn ngoan sau đây:
"Nếu bạn có tội trọng, bạn chớ trì hoãn; ngay bây giờ, trước khi tiếp tục đọc, bạn hãy ăn năn tội trọn đi".
4) Hãy ăn năn tội trọn, dù bạn sống trong tình trạng ơn thánh.
Tại sao? Vì mỗi lần ăn năn tội trọn là linh hồn bạn được tăng thêm ơn thánh sủng, mà một bậc Ơn thánh sủng thôi cũng quý hơn cả kho tàng thế gian. Ăn năn tội trọn tăng thêm công nghiệp đời này và vinh quang đời sau. Ăn năn tội trọn tha những tội nhẹ và những hình phạt tạm. Cũng như Mađalêna, bạn sẽ được tha thứ nhiều vì bạn đã yêu nhiều. Mỗi lần ăn năn tội trọn, là nhân đức của bạn được thêm vững chắc, nhất là Đức ái, vị nữ hoàng các nhân đức khác. Ăn năn tội trọng giúp bạn lãnh được ơn bền đỗ sau cùng, là đặc ơn riêng biệt cho những người được chọn.
3. Khi nào cần phải giúp người khác ăn năn tội trọn?
Khi ở bên người hấp hối, mà không có linh mục. Thường các trường hợp như thế xẩy ra thế nào? Mọi người đều cuống quít, khóc, la, mất bình tĩnh. Kẻ chạy tìm bác sĩ, người đi mời linh mục. Tuy nhiên, bệnh nhân đang hấp hối rồi. Có lẽ không ai thương đến linh hồn bất tử của bệnh nhân, không ai đề nghị với họ để cứu linh hồn họ bằng việc ăn năn tội trọn. Trong trường hợp đó, bạn hãy chạy đến bên giường bệnh, bình tĩnh đưa cho họ cây Thánh giá, bảo họ tưởng nghĩ và lập lại trong lòng những lời bạn sắp đọc. Rồi, bạn hãy đọc chậm rãi và rõ ràng kinh ăn năn tội.
(Kinh Ăn năn tội cách trọn: Lạy Chúa con, Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen).
Nhưng, gặp trường hợp bệnh nhân đã mất ý thức, nếu bệnh nhân không còn nghe, không còn hiểu được nữa? Bạn cứ thong thả đọc kinh ăn năn tội. Vì bề ngoài hay đánh lầm chúng ta. Dưới cái vẻ như đã chết, sự sống và ý thức hãy còn tồn tại lâu hơn chúng ta thường tưởng.
Nhưng, nếu bệnh nhân không phải là người công giáo, là một người lạc giáo, một lương dân chẳng hạn? Bạn cứ đọc đọc rõ ràng Kinh ăn năn tội, mà không cần nói đến việc xưng tội. Nhờ cách đó, bạn có thể bảo đảm phần rỗi của một linh hồn. Bạn đã thực hiện một công việc rất tốt lành, đời đời còn ghi nhớ.
Ngày 8 tháng 12 năm 1882, một hi viện lớn ở Vienne bốc cháy. Một biển lửa bao phủ hàng trăm con người. Giữa cơn kinh hoàng và giữ những tiếng kêu thảm thiết, bỗng có một tiếng người đọc oang oang kinh ăn năn tội. Phúc cho các tội nhân đã đáp lại tiếng ơn thánh kêu gọi đó! Thân xác họ gục ngã trong biển lửa, nhưng linh hồn họ được giải thoát ngọn lửa đời đời.
Ông Phan sắp chết. Cha xứ hiện đã có mặt tại nhà ông. Hai cậu con chạy xuống...rồi dừng dưới cầu thang. Cha xứ bảo: "Tôi được tin ông thân các anh ốm nặng". Họ đứng lặng thinh. Cha tiếp: "Có lẽ ông sẽ vui lòng nếu tôi vào thăm ông". Một cậu trả lời cộc lốc: "Cha tôi không có kêu cha, ông không cần đến cha" "Cha anh sẽ cần đến tôi. Thật mà. Đã ba mươi năm qua, ông không còn đi dự lễ, xưng tội gì cả"! Cậu kia hét lên: "Cha không được lên. Cha phải để cho thân phụ chúng tôi nằm yên, cha nghe rõ không? Cha không được bước thêm một bước nào trong nhà này nữa. Nếu cần chúng tôi sẽ xô cha ra ngoài". Rồi cậu nắm tay giơ lên trước mặt cha xứ.
Nửa giờ sau, cha xứ tới nhà ông An.
- Ông An, ông coi sóc cho ông Phan phải không?
- Vâng ạ.
- Sức khỏe ông ta lúc này ra sao rồi?
- Thưa cha, yếu lắm. Có lẽ không tới một ngày nữa.
- Nhưng đối với Chúa thì sao?
- Ông ta không nói gì cả.
- Này ông An, ông là một người công giáo. Ông Phan không thể nhắm mắt chết như một con chó. Tôi không thể vào gặp ông ta được.
- Thưa cha, con đã rõ điều đó.
- Ông hãy đi nói ngay với ông ta về Chúa, về linh hồn ông ta, về cõi đời đời. Nói cho ông ta biết rằng cha không đến được. Hãy khuyến khích ông ta cầu xin Chúa tha thứ bao tội lỗi. Hãy đọc chung kinh ăn năn tội. Hãy nói ông ta hiểu Chúa tha thứ tất cả cho ông.
Ba giờ sau, tự nhiên thấy ông Phan khóc nức nở trên giường bệnh.
- Ông An ơi! Tôi đã phạm tội nhiều quá! Tôi ước ao được xưng tội, nhưng người ta lại không cho phép cha xứ vào đây!
Ông An vội lau mấy giọt nước mắt ông lăn trên gò má ông Phan rồi lau mắt mình.
- Cha xứ nhờ tôi nói với ông rằng Chúa tha thứ tất cả cho ông rồi.
- Vâng, bây giờ tôi thấy an ủi lòng lắm. Này ông An, làm ơn đọc kinh ăn năn tội giúp tôi.
Và đôi môi ông Phan mấy máy: Ông đang đọc theo kinh ăn năn tội.
Hai ngày sau, các con ông Phan, lo táng xác cha. Không Thánh Giá. Không linh mục. Không một lời kinh. Đi thẳng một mạch tới nghĩa địa. Giống như một con chó. Nhưng, phần ông Phan, ông lại được chết trong tình trạng ơn thánh và được Chúa Giêsu yêu mến đón rước vào Nước Trời.
CHƯƠNG 19
VIỆC LÀNH
Tin mừng theo thánh Luca kể: "Có một người phú hộ kia được trúng mùa rất khá, nên suy tính trong lòng: tôi phải làm gì đây? vì tôi không còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu được nữa". Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này: phá quách các lẫm kia đi, và xây nhiều kho lẫm lớn hơn, rồi chất tất cả lúa má cùng của cải vào đó. Rồi rôi sẽ nhủ hồn tôi: "Hồn tôi ơi, mày có của dư thừa, dự trữ đủ cho hàng mấy mươi năm; ăn đi, uống đi, hưởng đi!" Nhưng Thiên Chúa phán bảo ông ta: "Đồ ngốc! Ngay đêm ngay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại linh hồn ngươi, thế mọi điều ngươi tích trữ sẽ về tay ai? Đối với kẻ lo chất của cải cho mình mà không biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa cũng thế đấy!" (Lc 12:16-21). Của cải chúng ta trước mặt Thiên Chúa, chính là ơn thánh sủng. Kho tàng đó có thể tăng thêm. Trong chúng ta là những Kitô khác, nhờ ơn Thánh sủng, đời sống thần linh có thể gia tăng mãi. Tự nguồn gốc, chúng ta là những vị chúa đang hé nụ, theo như lời các giáo phụ đã nói, và được gọi để trở thành những "vị chúa đang nở hoa". Thoạt tiên chúng ta chỉ có một chút "Bản chất Thiên Chúa" (Hb 3:14). Chúng ta phải "tiến đến chỗ nẩy nở hoàn toàn". (Col 2:19).
Ơn thánh sủng có thể tăng triển. Trong vòng bao lâu? Trong suốt đời chúng ta, đến giờ trút hơi cuối cùng. Mực độ ơn sủng chúng ta có trong giờ chết sẽ là mức độ vinh quang của chúng ta trong cõi đời đời. Thế mà bây giờ lại không thích khuyếch trương kho tàng ấy sao? Điều sẽ làm cho niềm vui chúng ta được cao tột bậc hoặc sẽ làm cho chúng ta đau khổ triền miên, trong giờ lìa đời, chính là cách chúng ta đã sử dụng thời giờ của chúng ta. Thời gian này, nếu muốn, chúng ta tích trữ vàng bạc để mua nước trời.
Cha xứ Ars đã nói: "Về một vài phương diện, chúng ta được hạnh phúc hơn các công dân Nước Trời; các Thánh chỉ có thể hưởng mối lợi sẵn có, còn chúng ta, hằng giây phút, chúng ta có thể tăng cường vốn liếng chúng ta".
Chúng ta sẽ lầm lạc lớn nếu qui định rằng ở dưới thế này chúng ta có thể đạt đến một bậc hoàn thiện cao độ đến không còn vươn mình lên được nữa. Tuy nhiên, dầu chúng ta leo cao đến đâu, luôn luôn chúng ta cũng vẫn còn xa Đức Trinh Nữ muôn dặm, huống hồ gì là Chúa Giêsu Kitô, là sự sung mãn và là nguồn Ơn Thánh Sủng.
Có mấy cách để làm tăng ơn thánh này? Có hai.
1) Nhờ các bí tích, bí tích người chết, hoặc bí tích người sống, nếu được lãnh trong tình trạng ơn thánh. Đó là trường hợp các người xưng tội, mà không mắc tội trọng nào, hoặc chịu phép Thánh Tẩy hay giải tội sau khi thật lòng ăn năn thống hối.
2) Nhờ các việc lành. Có ba việc lành bao gồm hết các việc khác:
- Cầu nguyện, bao gồm tất cả mọi việc đạo đức.
- Ăn chay, bao gồm hết các hy sinh hãm mình.
- Làm phúc, đại diện cho mọi việc bác ái.
Mỗi việc lành điều có ba giá trị. Giá trị lập công: tăng thêm ơn thánh sủng và vinh phúc đời đời. Giá trị đền bồi: đền bồi các tội nhẹ cách gián tiếp, khi nhờ đó ăn năn tội ít nữa là cách chẳng trọn, và những hình phạt tạm. Giá trị khẩn cầu: mang lại cho chúng ta nhiều ân huệ thiêng liêng và thế trần.
Giá trị lập công dính liền với cá nhân chúng ta. Còn giá trị đền bồn và khẩn cầu, chúng ta có thể giữ cho mình hoặc thông chia cho tha nhân. Muốn một việc lành có giá trị lập công, chúng ta phải thực hiện việc lành đó trong tình trạng ơn thánh và với ý hướng ngay thẳng.
1. Tình trạng Ơn thánh.
Muốn bóng đèn điện cháy sáng, cần phải có gì? Dòng điện phải chạy qua, dòng điện không được bị cắt. Còn muốn cho một chi thể được nẩy nở? Chi thể đó phải dính liền với thân thể. Còn muốn cho cành cây sinh hoa kết trái? cành đó phải bám sát với cây. Còn muốn cho các việc của chúng ta được có công trạng? Chúng ta phải kết hiệp với Chúa Kitô bằng ơn Thánh sủng. Chính Người đã phán: "Vì xa Ta các con không làm được chi" (Jn 15:4) để đáng rỗi linh hồn.
Như thế phải chăng các việc lành thực hiện khi còn phạm tội trọng, đều vô ích? Không. nhờ chúng, chúng ta có thể nhận được nhiều lợi lộc đời này và cả ơn cải tà quy chánh. Một người vô tín ngưỡng, vô luật pháp vẫn phát đạt ở đời này? Vì sao? Vì họ làm việc lành, các việc đó Chúa sẽ không thưởng ở đời sau, vì Chúa thưởng ở đời này. Người đó đã cải tà quy chánh. Tại sao? Chính các việc đã đem lại cho họ ơn đó.
Chính vậy, vấn nạn này chẳng có gì khúc mắc cả: ai giầu thật sự, ai nghèo thật sự? Người giầu là người sống trong tình trạng ân sủng, người nghèo là kẻ tội lỗi. Đây hai người bạn đồng nghiệp, họ rước lễ vỡ lòng cùng ngày, họ lập gia đình cùng lúc, con cái của cải lại đều nhau, có trai có gái. Người thứ nhất luôn luôn sống trong ơn thánh, hoặc có lỡ phạm một tội trọng thì liền chỗi dậy ngay. Người kia sống năm mươi năm trong vũng tội, nhưng đến giờ chết đã trở lại. Cả hai đều chết trong ơn nghĩa Chúa. Người thứ nhất ra sao? Mỗi một việc lành, mỗi một kinh nguyện, giây phút cuộc đời ông đều tăng vinh quang đời đời của ông, đều đính thêm một hạt ngọc vào triều thiên bất diệt của ông. Còn người thứ hai? Ông cũng được vào Thiên Đàng, nhưng năm mươi năm cuộc đời trôi qua phung phí và không đem lại cho ông một phần thưởng nào. Năm mươi năm lao nhọc, năm mươi năm qua đi uổng công. Có buồn chăng?
Anh Thanh muốn cưới cô Lan. Theo đức khôn ngoan, chàng đến tham khảo ý kiến cha xứ, sau khi đã cầu nguyện nhiều và đã hỏi ý cha mẹ.
Trước hết chàng bảo: "Nàng không có của hồi môn". Cha xứ lấy quyển sổ tay ghi một con số không to tướng. "Nhưng nàng đẹp ghê". Cha xứ lai khoanh một con số không!..."Nàng lại biết chơi dương cầm và hội hoạ". Thêm một con số không thứ ba..."Nàng rất giỏi về việc nội trợ". Con số không thứ tư. "Gia đình nàng thuộc một trong số nhà kỳ cựu trọng vọng nhất trong xóm làng". Con "dêrô" thứ năm "Và nàng đã đậu cử nhân". Nối thêm con "dêrô" thứ sau. "
A, con quên, nàng là một người công giáo rất tốt". Nghe câu đó, cha xứ ghi ngay con số 1 trước đây số không rồi đưa quyển sổ cho chàng thanh niên và bảo: "Nhanh lên, cưới nàng đi, nàng đáng giá bạc triệu đấy" Không có ơn thánh, tất cả mọi việc lành chúng ta làm đều là những con số không trong cõi đời đời.
2. Ý hướng ngay lành.
Muốn gửi thư đến nơi, chúng ta phải đề địa chỉ ngoài phong bì. Nếu bạn muốn Chúa vui lòng chấp nhận các việc bạn làm, bạn hãy làm các việc đó vì Chúa. Khi chiều đến bạn có trả lương cho một người thợ chỉ làm công cho người láng giềng bạn không? Thiên Chúa không mắc nợ bạn gì cả, nếu bạn không làm việc cho Ngài. Phải làm các công việc với một ý hướng ngay thẳng, trong sạch, siêu nhiên. Làm vì Chúa. Về các người chỉ làm để được người đời dòm ngó, Kinh thánh có chép: "Họ đã lãnh phần thưởng rồi" (Mt 6), họ không còn gì ở trên trời nữa. Họ đã đặt gia tài của họ "trong một chiếc bao thủng đáy" (Ag 1:6). Đến ngày công phán, họ sẽ trình diện với đôi bạn tay trắng. Chịu cực khổ đấy, nhưng tuyệt nhiên chẳng được gì.
Muốn có ý hướng ngay thẳng luôn, phải làm thế nào? Mỗi sáng, bạn hãy dâng ngày cho Chúa. Rồi trong ngày, thỉnh thoảng, bạn nên dâng lại bằng những lời nguyện vắn tắt.
Kinh sáng! Mọi trẻ em được giáo dục mỗi sáng khi thức dậy đều nhớ chào cha mẹ.
Câu người Công giáo chào hỏi Chúa, lối người tín hữu bày tỏ lòng cung kính đối với Chúa, đó là kinh nguyện buổi sáng. Đọc kinh sáng thế nào? Khi thức dậy, bạn hãy làm dấu thánh giá rồi đọc kinh như có chỉ trong các sách kinh nguyện: công thức đơn sơ, nhưng không có công thức nào đẹp hơn. Không cần đọc kinh nào khác; nhất là đừng thêm những công thức phiền toái dài dòng. Nhớ đọc thêm ba kinh Kính Mừng: Kinh rất hiệu nghiệm để giữ bạn sống suốt ngày trong ơn nghĩa thánh.
Tại sao lại cầu nguyện vào buổi sáng? Để ngày sống của chúng ta được nên công phúc. Công trạng: vâng. Một khi được siêu nhiên hóa nhờ sự dâng ngày, tất cả mọi hành động, vui buồn, cực khổ trong ngày đều biến thành kinh nguyện; do đó, hằng giây phút bạn hằng nguyện cầu, từ sáng tới tối. Hạnh phúc: Vâng. Bạn sẽ hài lòng hơn, bạn sẽ vui tính hơn. Có những người càu nhàu suốt ngày: thế giới, loài người, đời sống đè nặng trên vai họ. Tại sao vậy? Thường thường, vì họ biếng nhác không đọc kinh sáng. Cả ngày đều tùy thuộc vào kinh đó.
Kinh dâng ngày buổi sáng đủ lắm rồi, nếu trong ngày đó chúng ta không phạm tội gì nặng. Nếu buổi sáng bạn lên phố, bạn không cần phải cứ mỗi bước phải lẩm nhẩm: "Tôi đi lên phố" Không cần nói thế, bạn cũng đến nơi. Cũng vậy, nếu mỗi buổi sáng, nhờ sự dâng ngày cho Chúa bạn đã lên đường về Thiên đàng, và giả thiết bạn sống mãi trong tình trạng ơn thánh, thì tất cả mọi việc lành của mình dù tốt dù "trung lập" (như lao lực, dùng bữa, ngủ nghỉ), đều được công trạng và đáng phần thưởng đời đời, dầu sau đó bạn không nghĩ đến. Nhưng, nếu trong ngày, bạn lỡ sa ngã phạm một tội trọng, bạn phải trở lại ngay tình trạng ơn nghĩa bằng cách xưng tội hoặc ăn năn tội cách trọn với ý muốn xưng tội; rồi bạn hãy dâng ngày lại.
Ý hướng ngay lành là nguồn sinh nhiều công việc vô kể. Các bậc tôn sư trong đời sống thiêng liêng gọi ý hướng ngay lành và một thứ kim hóa học biến tất cả thành vàng. Thánh nữ Mađalêna Pazzi tuyên bố: "Kẻ nào làm mọi việc với ý hướng trong sạch, sẽ đi thẳng về Thiên đàng, mà không ghé qua luyện ngục". Thánh Anphongsô bảo: "Các việc đó đều là hành vi yêu Chúa; mà, kẻ chỉ sống vì tình yêu mến Chúa thì không thể đi đến nơi nào khác ngoài nước Thiên Đàng".
Trong một tu viện Phanxicô, có một thầy thợ may tuổi cao: thầy Leon. Ngày về nằm với đất đã quá gần. Và cũng từ lâu, lâu lắm rồi, thầy làm việc không ngừng, nhưng giờ đây, nằm trong căn phòng riêng, giữa các cha thầy bạn, thầy đang đợi bóng tử thần. Các lời kinh cuối cùng đã được đọc xong. Bỗng người già liệt chồm dậy bảo; "Xin các thầy đem cho tôi chiếc chìa khóa mở cửa Thiên Đàng của tôi". Người ta đem lại cho thầy một quyển sách cũ kỹ nhan đề "Chìa khóa mở cửa Thiên đàng". Người liệt lắc đầu. Người ta tuần tự đưa lại cho thầy Thánh giá, quyển luật, chuỗi hạt Mân Côi thầy vẫn quen dùng. Nhưng cũng không phải. Không phải, ai nấy đều ngỡ ngàng vì chẳng ai đoán ra được ý thầy muốn cái gì. Chiếc chìa khóa nước trời đó là cái gì bây giờ? Phải chăng lời kêu xin lạ lùng đó chỉ là hậu quả của cơn mê sảng?
Nhưng, này, một thầy già đã đoán được. Thầy đi tìm cây kim thầy Leon đã dùng từ bao năm qua. Bây giờ, mắt thầy sáng lên, trên đôi môi nhạt úa đã tươi nở một nụ cười ngây ngất! Hai tay thầy chụp lấy cây kim và miệng thầy than thở, tiếng nói đứt quãng: "Hỡi người bạn cũ kỹ, chúng ta đã làm việc nhiều: nhưng tôi đã hiến dâng mọi công việc của tôi cho vinh Danh Chúa, để được phần vinh phúc muôn đời. Giờ đây sợi dây ràng buộc đời tôi đã dứt, nơi cây kim được chúc phúc, bạn sẽ là chìa khóa nước trời của tôi và bạn sẽ mở cửa Thiên đàng cho tôi".
Rồi thầy tắt thở. Nụ cười trên môi. Cây kim thầy nắm trên lồng ngực. Mọi người quỳ gối bên giường thầy nhắn nhủ nhau: "Thầy Leon chết ngon lành quá nhỉ!"
Vị tu sĩ canh xác xúc động lên tiếng: "Kính thưa anh em tất cả, ước gì tất cả chúng ta đều được chết như thế! Chớ gì công việc của mỗi tu sĩ đều biến thành chìa khóa mở cửa Thiên Đàng cho mình".
3. Sự thánh thiện thuộc tầm sức của mọi người.
Dù công việc chúng ta có khiêm tốn đến đâu, chúng ta có thể tích trữ cho chúng ta những kho tàng công nghiệp siêu nhiên. Isiđôrô, một bác nông phu; Anna Taigi, một bà chủ gia đình nghèo khó; Zitô, người nô tỳ; Bênêdictô Labre, người ăn xin. Nhưng tất cả các người đã được Giáo Hội tôn phong lên bàn thờ. Matt Talbot, phu khuân vác; Margarita Sinclair, một nữ công nhân, thế mà thiên hạ ngày ngày vẫn khẩn cầu họ là thánh. Thường thường, cuộc đời tầm thường nhất ở dưới thế lại là cuộc đời đầy công phúc nhất trước mặt Thiên Chúa.
Thói quen nhàm chán lúc nào cũng mang lại cho bạn những công việc nho nhỏ mệt nhọc ư? Hai mươi tư giờ trong ngày bạn chỉ toàn đầy những công việc lặt vặt, tỉ mỉ ư? Bạn đang chạm trán, không phải với một nhiệm vụ lớn lao nhưng với phận sự vô nghĩa xoàng xĩnh bực bội ư? Chính đó là lúc bạn lập lại ý hướng ngay lành, nỗ lực tiến bước, và phát giác vẻ đẹp và giá trị thần linh dưới lớp vỏ xù xì của những công việc nhàm chán.
Rủi ro thay, chúng ta đặt sự thánh thiện trong các việc phi thường.
Một lầm lẫn khác: chúng ta ít hài lòng về cái hiện có, chúng ta khao khát điều khác lạ, chúng ta bị ám ảnh vì ý nghĩ muốn, đổi chỗ, dời nhà.
Ông bà "Tha Phương" xưa kia bị lâm cái bệnh rất phổ biến được mệnh danh là bệnh "thích cựa quậy" mà đặc tính không ngớt ao ước thay đổi chỗ ở. Nhà họ là một biệt thự xinh xắn, đối với họ lại là một nhà tù. Họ quyết định bán đi, tậu một căn nhà khác. Sau khi liên lạc với cơ quan mua nhà và thuê mước nhà ở, họ đi tìm một căn nhà mới. Trên mặt báo họ đọc thấy có hàng tin ngắn quyến rũ :"Cần bán: nhà nhỏ cổ kính. Giòng sông rất đẹp. Săn bắn. Câu cá. Khí hậu thơm lành. Di dưỡng sức khỏe. Xin liên lạc với..." Họ bảo: "Nè, nè ngon quá! Còn muốn gì hơn nữa?" Họ chạy xuôi chạy ngược và cuối cùng mới biết câu quảng cáo đó là chính quảng cáo cho chính căn nhà của họ. Quả là một mạc khải thật sự mở mắt cho họ. Họ bảo nhau: "Mà thực, nhà chúng mình như thế đấy. Thế mà ta lại định bán đi!" Rồi họ lại trở về, và hiện nay vẫn còn đang ở đó.
Bạn hãy ở lại nơi bạn đang ở. Không phải nghề nghiệp hay nơi chốn làm nên công nghiệp đâu: nhưng chính là ơn thánh và ý hướng ngay lành.
Đây, một thánh nhân tại xưởng thợ. Một đấng thánh trông thật đáng thương. Một người thợ giữa biển thợ mênh mông. Làm phu khuân vác tại một nhà buôn gỗ và làm thợ một tại Dublin. Khi dạo bước trên bến "Chương Dương" bạn gặp một anh khuân hàng, hoặc tại các ga xe lửa, bạn thấy một bác lao công chân tay lấm lem, thân người rã rợi vì công việc...biết đâu đó lại chẳng phải là một thánh nhân, một thánh nhân có thể làm cho tất cả mọi nhà đạo đức chuyên nghiệp phải hổ thẹn.
Matt Talbot, sinh tại Dublin. Ngày 2 tháng 5 năm 1856. Mãi tới năm 28 tuổi, trong đời không hề thấy có gì biểu lộ nghị lực bí mật mà một ngày kia, nhờ ơn Chúa giúp, sẽ nâng cao linh hồn ông. Cũng như bao nhiêu người khác, ông cũng bị cám dỗ nhậu nhẹt. Lương hàng tuần của ông chỉ trong một ngày là tiêu tán sạch. Dần dần, ông xa lìa đời sống đạo hạnh. Một hôm, ông nói với thân mẫu "Con sắp ký tờ "pledge", tức là tờ cam đoan sống điều độ, ở Ái Nhĩ Lan, ông tình nguyện sống như thế ba tháng, rồi một năm, rồi cả cuộc đời. Thiên Chúa đợi ông ở đấy. Một khi bị khuất phục, thân xác trở nên tên đầy tớ phục vụ linh hồn. Được lời cầu nguyện và sự rước lễ nâng đỡ, người công nhân dần dần tiến lên, từ chỗ kiêng khem giản dị, đến mức hy sinh anh hùng nhất.
Trước kia, Talbot đã học nghề thợ nề, nhưng vì không thể dự lễ trước khi khởi sự sống ngày hôm đó, nên ông đành làm chân thợ phụ để giữ phúc rước lễ hằng ngày. Làm thuê cho một tiệm buôn gỗ, ông phải khuân vác suốt đời.
Bên ngoài, Talbot là một công nhân gương mẫu. Làm việc tận tụy. Đầy nhiệt huyết và hết sức thanh liêm. Ngoài ra, còn là một người bạn tuyệt vời nhưng cũng biết dùng sự hiện diện để ngăn cản bất cứ một lời nói tục tằn thô lỗ nào.
Theo lời các ông cai, thì Talbot không bao giờ đi làm trễ giờ. Các giờ nghỉ, Talbot rút lui vào một nhà xe và cầu nguyện cho các bạn hữu mình. Luôn luôn nhã nhặn, giúp đỡ mọi người, vô vị lợi.
Một hôm, ông phải nhanh tay khuân vác hàng hóa ở tàu lên bờ. Để tưởng thưởng công việc phụ trội đó, mỗi người được lãnh thêm hai quan rưỡi. Matt không chịu trình diện để nhận tiền. Bác cai hỏi ông, ông trả lời rằng trong tuần ông thường được những phút nhàn rỗi: vậy chẳng phải là công bằng khi công việc gấp rút, mình phải cố gắng nhiều hơn một cách nhưng không sao? Xét tự bên trong, Talbotr quả là một vị tu hành. Đời sống là đời cầu nguyện và hãm xác đền tội.
Ra khỏi xưởng. Matt đi ngay vào nhà thờ viếng Mình Thánh Chúa, rồi vào phòng đóng cửa lại, ông nguyện ngắm liên tiếp ba tiếng đồng hồ. Sau giấc ngủ vắn vỏi trên một tấm ván trơ trụi, ông lại thức giấc, lúc đó chỉ mới hai giờ sáng, qùy gối, giang hai tay, cầu nguyện. Nhà thờ vừa mở cửa là đã thấy ông chực sẵn trước tiền đường, hai gối qùy trên nền gạch. Dự lễ và rước lễ xong, ông đến xưởng làm việc, nhưng đối với ông công việc nặng nhọc chỉ là một hình thức khác của việc cầu nguyện mà thôi.
Ngày Chúa Nhật, ông quỳ cả buổi sáng dưới chân bàn thờ, không cần ghế dựa, và mãi đến sau hai giờ trưa mới chịu về nhà dùng cơm nước. Rồi ông lại đến nhà dự các buổi cầu nguyện, cũng như các phiên họp Dòng Ba Phanxicô và Hiệp hội Thánh Mẫu. Thực vậy, cũng như mọi người Ái Nhĩ Lan đạo đức khác. Matt Talbot thật lòng tôn sùng Mẹ Maria cách sâu xa với lòng đầy tin tưởng.
Người nghèo đó lại là người nghèo tuyệt vời. Hầu như ông không xài phí gì cả cho chính mình, lại tìm ra phương tiện mỗi năm dâng cúng hơn 3,000 quan vào các bệnh viện miễn phí, các công cuộc xã hội và nhất là cho các xứ truyền giáo.
Matt Talbot còn sống giữa những tháng năm 1920 tới 1925, một thời gian còn ghi đậm nét lịch sử trong tâm não, một thời gian đã có biết bao nhiêu thánh nhân đang cứu chuộc cái thế giới tồi bại này bằng giá cuộc đời mai danh ẩn tích và thầm lặng, bằng giá hy sinh và nghèo khó. Talbot đã ghi lại nhận xét đơn sơ sau đây: "Con cái loài người không biết vẻ cao đẹp của vĩnh cửu cũng như chẳng hiểu cái hèn mạt của thế tục. Thời gian đời người chỉ là cuộc chạy đua đến chỗ chết và không ai được phép nán lại đó".
Ngày Chúa nhật 7 tháng 6 năm 1925, ông bị té xỉu trên đường tới nhà thờ. Một tai nạn thường. Dân chúng chạy tới. Người ta đi tìm một chút nước. "Ông ơi, ông sắp được vào thiên đàng rồi đấy!", một bà già lúc đó vừa nói vừa đưa tách nước lên môi Talbot. Và Matt Talbot đã tắt thở.
Nhưng, khi xác được chở tới bệnh viện để rửa, người ta đã thấy một dậy nịt sắt chung quanh bụng ông. Chính sợi dây lúc đầu ông đeo quanh cổ và lưng; song vì phải khuân gỗ suốt ngày dây xích sắt vướng mắc và đâm thủng vào thịt, nên buộc lòng ông phải cuốn quanh bụng.
Giáo quyền rất xúc động khi hay tin đó. Một cuộc điều tra bắt đầu. Nhờ đó chúng ta mới được biết các điều tuyệt diệu vừa được phác họa trên đây. Danh tánh của người công nhân nghèo khó đã được đưa ra ánh sáng. Các chứng cứ ùn ùn dồn tới. Sau cùng, với các nhân đức Matt đã thực hiện trong buổi thiếu thời, các chứng cứ đó đã bắt đầu minh chứng uy quyền Thiên Chúa đã ban cho ông sau khi ơn trở lại đạo thánh, ơn lành bệnh, ơn tìm được việc, ơn giao hoà trong gia đình, ơn chữa khỏi bệnh say rượu.
Được sống trong một thế giới có những vị thánh như thế và nhiều thánh như thế, thật vui sướng biết bao!
Thánh Isiđôrô, bổn mạng các bác nông phu, sinh tại Thủ Đô nước Tây Ban Nha (Madrid), vào hồi thế kỷ 11. Một phần lớn nước này lúc đó rơi trong tay đoàn quân Hồi Giáo (Maures). Người Công giáo phải tinh khéo mới giữ được đức tin và đời sống đạo. Cha mẹ người, cũng làm nghề cầy cấy, đã truyền lại cho người một đức tin tinh tuyền. Theo lời người chép sử thì người nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có đủ phương tiện để đi học. Người ở nhà giúp đỡ thân phụ trong việc đồng áng, rồi mãi sau muốn lập gia đình, người phải đi ở thuê cho một người ở trên phố và được phái tới làm tại đồng đền ở Ca-Ra-Măng-Ca (Caramancha).
Cũng như mọi bác nông phu người Việt, Isiđôrô phải cầy sâu cuối bẫm suốt ngày, mùa hè cam chịu sức nóng như thiêu đốt, mùa đông chịu hứng cơn lạnh như cắt da và những trận mưa tầm tã. Isiđôrô rất sợ các cơn giông phá hoại mùa màng và cảnh trời hạn hán rùng rợn. Isiđôrô cũng cảm thấy vang dội tận đáy lòng các niềm vui lành mạnh do đời sống nông thôn đem lại, yêu mến nghề nghiệp cao quý của mình, thích thú với bốn mùa thay đổi, với các dụng cụ và các thú vật chăm sóc. Các sử gia đã chẳng thuật rằng đối với súc vật, người có tình thương thắm thiết ư? Một hôm, người đã chữa lành bệnh cho con ngựa của người. Lần khác, người giải thoát con lừa cải của bác láng giềng khỏi miệng chó sói. Rồi một lần vào mùa đông, người đi ngang qua một đàn bồ câu đang đói, người động lòng trắc ẩn đổ hết cả túi lúa mì xuống đất cho đàn chim đáng thương đó.
Nhưng lòng yêu thích ruộng nương không chiếm trọn quả tim Isiđôrô. Người biết tự tách rời đúng lúc để dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi nồng nàn. Việc làm của người là một kinh cầu nguyện không ngừng. Chúng ta hãy ngắm người làm việc. Mỗi nhát cuốc, mỗi luống cầy, mỗi nhát liềm là một việc được tình yêu Thiên Chúa mà người đặt lên trên mọi sự.
Thức giấc trước khi mặt trời mọc, người đi dự lễ nguyện ngắm. Hằng ngày. Thỉnh thoảng, buổi nguyện ngắm được kéo dài. Công việc của người có phải vì thế mà thiệt thòi không? Các bạn người nghĩ thế và họ tàn nhẫn tố cáo với chủ. Ông chủ là người dễ tin và tọc mạch, muốn rình để xem sự thể. Từ sáng tinh sương, ông chui vào một cái hang để có thể tha hồ quan sát mà không sợ bị lộ tẩy. Mặt trời đã lên cao mà Isiđôrô vẫn chưa xuấn hiện. Ồ mà lạ nhỉ! Chiếc cầy của Isiđôrô đã nằm trên đám ruộng rồi kìa. Nó tiến đều, có cả hai con bò trắng tuyệt đẹp kéo cày theo sự điều khiển của một nhân vật huyền bí, một Thiên Thần. Ông chủ nhìn ngắm mà lòng kinh ngạc cũng như hổ thẹn khôn tả. Khi Isiđôrô đến, ông quỳ xuống dưới chân Isiđôrô xin lỗi vì đã tin nghe lời dèm pha nhạo báng. Ông đã hiểu rằng thời giờ dâng cho Thiên Chúa không phải là thời giờ vất đi và một đầy tớ như thế đối với ông là cả một kho tàng quý giá.
Yêu mến Chúa hết lòng, người nông phu nghèo khó đó cũng mến Ngài trong các hình ảnh sống động nhất của Ngài ở trần thế, tức là đám người bần khổ. Chính mình nghèo xơ xác Isiđôrô lại phân phát cho họ cả tiền lương đến nỗi không còn gì lại. Một chiều thứ bẩy, có người nghèo đến gõ cửa, Isiđôrô bảo vợ xem có còn gì trong nồi cơm trưa không. Maria, vợ người, biết rõ không còn gì cả. Tuy nhiên, bà vẫn đi coi và trở lại với chiếc nồi đầy ắp những món ăn ngon lành, khiến người hành khất được một mẻ no nê. Nhiều phép lạ khác thay phiền nhau phê chuẩn lòng đạo hạnh và đức bác ái tuyệt vời của Isiđôrô.
Isiđôrô yên nghỉ trong Chúa vào năm 1170, sau khi đã nhắn nhủ đứa con trai phải sống đạo hạnh và bác ái như người cha đã sống liên lỷ trước mặt nó. Di hài Người được gìn giữ trong Thánh Đường kinh Thánh Anrê. Tới năm 1719, vua nước Tây Ban Nha được lành bệnh lạ lùng nhờ động chạm tới xác Isiđôrô, nên đã thúc giục thỉnh cầu Giáo Hoàng tôn phong hiển thánh cho Người. Ba năm sau, Isiđôrô được đặt trên bàn thờ cho toàn thể giới Công giáo ngưỡng mộ, noi gương và cầu khẩn. (P. Marmoiton).
Lạy Thánh Isiđôrô, xin giúp chúng con luôn sống trong tình trạng ơn thánh và luôn hành động với ý hướng ngay lành!
Vào thế kỷ 16 và 17, có nhiều vị thánh đã xuất hiện từ đám dân bán khai miền Paraguay, cực Nam châu Mỹ. Các vị quản đốc các địa phận truyền giáo có nói: "Có khi cả năm ở đây chẳng hề phạm tội trong nào!..."Có những vị Thánh, ở thế kỷ 20 sống giữa đám dân thôn quê và nông phu chúng ta. Họ không phàn nàn than trách vì áo quần xấu xí, vì nhà cửa thiếu tiện nghi. Họ không hổ thẹn vì ban tay chai cứng do công việc nặng nề được đưa lại. Công việc lao nhọc, họ không xem như việc cưỡng bách.
Họ không chửi thề khi phải dừng lại cho một chiếc xe hơi vui vút chạy qua. Họ không nhìn với khoé mắt thèm thuồng những nguy nga lộng lẫy của những nhà giầu có và các bàn ăn đầy cao lương mỹ vị. Họ bằng lòng với số lương hợp lý và tránh tỏ thái độ bất mãn hận thù. Họ không bán rao những câu nói văn chương, những lời hứa vàng ngọc. Họ không dùng óc mơ mộng hảo huyền về tương lai, vì họ cảm thấy mình là kẻ bất hạnh hoặc nạn nhân của bất công. Họ chuộng làm việc hơn là để phí mất thời giờ. Những ai ở nhưng không, những người ăn mày vì biếng lười, không tạo được chút thiện cảm nơi họ. Họ lương thiện như vàng ròng. Họ cầu nguyện bằng đôi môi với con tim, song nhất là bằng đôi tay. Họ cảm thấy gánh nặng cuộc đời đè trĩu trên hai vai nhưng vẫn tiến bước nhẹ nhàng trong cuộc sống. Họ ẩn thân dưới cánh tay ấm áp và mở rộng của Thiên Chúa. Họ biết rằng từ cảnh nghèo khổ của họ ở trần gian sẽ mọc lên mầm phong phú vô biên ở trên trời!.
Bên cạnh thánh Isiđôrô, các nông phu cũng nên khẩn cầu cùng thánh Hilariô (năm 450), Giám mục thành Arles. Người đã cầy ruộng để có thể làm việc bác ái dễ dàng hơn. Trí óc người minh mẫn khéo léo đến nỗi khi có một mình mà đã chế được những bộ máy tự động để hút nước ra khỏi các ruộng muối. Thêm một bác nông phu khác: Thánh Mariô ở Aventicum, từ trần vào năm 495.
Các nhà làm bánh cũng có một đấng thánh. Đó là Phaolô, sau này đã trở thành Giám Mục địa phận Verdun, qua đời khoảng năm 649. Tương truyền rằng, một hôm, vì qúa gấp, người đã nhảy vào lò nướng bánh đang cháy bừng để lấy chiếc mũ hơ trong đó.
Cậu chăn bò, Marcô, chết khoảng năm 300 vì đức tin. Cậu bị xử tử ở Bythynia, nhưng trước khi chết đã cải hóa ba bác thợ rèn có nhiệm vụ trói cậu.
Các bác đóng giầy cũng có quyền hãnh diện chứ. Ít nhất họ cũng đã có tới năm thánh quan thầy, thánh Arianô (+85), được chính thánh Marcô tấn phong Giám Mục Antiochia. Hai vị lừng danh khác; thánh Grépin và Créphinien (+287). Cả hai đều thuộc dòng quí tộc létien ra tay bắt đạo. Giống như thánh Phaolô, các người muốn tự tay nuôi sống, và nổi bật nhờ giá trị nghề nghiệp của mình. Khách hàng đông vô kể, mà phần nhiều là kẻ ngoại. Trước tiên các bác thợ giầy thánh đức đó lôi cuốn họ nhờ sự hiền lành và nhã nhặn luôn sẵn sàng phục vụ, rồi làm cho họ trở lại ngay giữa thời cấm cách. Các nhà đóng giầy này đã biến thành những nhà truyền giáo. Porphyrô thành Gaza (+421), chuyên viên vá dép tại Giêrusalem (+650) hành nghề đóng dép tại Rôma.
Các sử gia còn nói tới một thánh nhân hành nghề đốt than thánh Alexandres de Comée, miền Pont (+250). Là một thanh niên tuấn tú, khôi ngô, nên thánh nhân đã chọn nghề đó để thiên họ khỏi chú ý đến nhan sắc mình, nhưng nhân đức chói ngời của đấng thánh có giấu được ai. Do đó, Giáo Hội đã đặt người là Giám Mục và người đã được phúc chết vì đạo Chúa.
Một tay đầu bếp cả ngày quấn quít bên xoong chảo thành thánh được không? Ồ, được lắm! Thày Euphronysos là một người chuyên làm bếp vậy mà đã nên thánh (+950).
Và những bác thợ rèn Alexandre. Alphée, Zozime (+300) có nhiệm vụ trói cậu mục đồng Marcô chúng ta vừa nhắc tới trên kia, đã cảm thấy e ngại khi phải thi hành công tác, ba bác đã trở lại và chết vì đạo theo gương Marcô. Cả ba đều được phong thánh.
Có hai vị thánh làm nghề ép nỉ: thánh Ménigne, tử đạo tại Pariar xứ Hellespont vào khoảng năm 250 và thánh Anastase qua đời năm 304. Sử gia của thánh Anastasio đã viết về người như sau: "Tiệm của người biến thành một nguyện đường: chính nơi trước đây đã dùng để tẩy uế áo quần, ngày nay, được dùng làm chỗ để tẩy rửa các vết dơ bẩn trong linh hồn người ta nhờ lời cầu nguyện.
Nhưng cũng chẳng có ai ngạc nhiên khi ngheo nói tới những vị thánh sống nghề làm vườn. Các người vun trồng các nhân đức cách tự nhiên như vun trồng cay rau lá cả. Thánh Phô-ca đê Sy-Nô (Phocas de Sinope +300). Cô-Nông-Đệ-Mang-Đô-Na (Conno deandona) ở Pamphyly (Pamphylie) và thánh Sê-rê-nô (Serenus +307). Cả ba Đấng đều gục ngã vì đạo Thánh. Tương truyền thánh giáo phụ. Paulin de Nole, đã tra tay làm vườn tại Bắc Phi để giải cứu đứa con trai của một góa phụ trong địa phận người.
Một bác thợ nề. Thánh An-tô-Nanh (Autonin) tử đạo ở A-pa-ê nước Syri (Apamée, Syria).
Các Thánh đục đá vừa đông lại vừa danh tiếng hơn ai hết. Trước tiên đây: bốn vị Thánh rất lừng danh thời thái cổ và trung cổ: Clô-Đê (Claude). Ni-Côt-Tra (Nicostrade). Cát-tô (Castor) và Sym-phong-riêng (Symphorian) bị xử tử vào khoảng năm 306, chỉ vì đã từ khước khắc tượng Thần Asclépios. Sách thuật chuyện cho thấy các vị làm việc trong các hầm đá miền Pan-nô-ny (Pannonie), là những giáo hữu cương quyết sống giữa lương dân, bị bè bạn và nhất là các "triết gia", nghĩa là các kỹ sư, các vị giáo đốc, quản đốc nhạo cười, bắt bớ như trong các xưởng thợ ngày nay ra sao? Tuy nhiên, các vị đã biết làm cho mọi người kính mến và quý trọng dưới tư cách công nhân, nhờ gía trị nghề nghiệp của các vị. Sự thành công và tính tình của các thánh lao công đó đã gây thắc mắc cho nhiều người. Rồi, sau nhiều lần chuyện vãn lâu giờ đã có nhiều người xin theo đạo. Họ đã ôm ấp đức tin.
Bác sĩ Nơ-Nê (Neubner) một giáo sư có tiếng của đại học đường Lép-Zic (Leipzig), vừa cho xuất bản tiểu sử phê bình về 350 vị Thánh lao động. Tác phẩm có minh chứng một chân lý ít được người đời để ý là người ta vẫn có thể tự thánh hóa bản thân dù sống trong địa vị cảnh thấp hèn nhất. Hay nói đúng hơn, người ta có thể nên Thánh bằng cách có một đời sống nội tâm đã được giản dị hóa rất nhiều: tức là tình trạng ơn thánh và ý hướng ngay lành luôn luôn song hành với nếp sống thường nhật đầy ứ công việc vật chất.
CHƯƠNG 20
CẦU NGUYỆN
1. Cầu nguyện là điều kiện cần thiết.
Thánh Phanxicô Salêsiô bảo: một em bé thấy con chó dại đàng xa đang hung hăng chạy lại. Em sẽ làm gì? Chạy trốn ư? Không thể được, vì em đâu biết chạy nhanh. Em sẽ làm gì? Em la lên, em gọi mẹ đến: mẹ em bênh vực em và cứu sống em.
Em bé, chính là mỗi người chúng ta với sức riêng mình. Không thể bước tới một bước trên con đường phần rỗi. Con chó dại, chính là ba địch thù lợi hại của linh hồn: ma quỷ, thế gian, xác thịt. Phải làm gì? Phải kêu cứu. Phải cầu nguyện. Nếu không, đời chúng ta sẽ hư hỏng mất thôi.
Cầu nguyện cần thiết cho phần rỗi đối với mọi người đã tới tuổi khôn. Chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy cho chúng ta biết sự cần thiết đó. Người phán dạy: "Hãy cầu nguyện! Phải cầu nguyện!" xin bạn hãy nghe kỹ? Chúa không nói: "Rất nên, rất hữu ích". Không. Chúa nói: "Hãy cầu nguyện. Phải cầu nguyện!" Chúa không khuyên nhủ, nhưng Chúa truyền lệnh, và lệnh đó Người lập đi lập lại dưới mọi hình thức: "Hãy xin. Hãy tìm. Hãy gõ!"
Các Thánh giáo phụ gọi cầu nguyện là sự thở ra hít vào của linh hồn: Nhờ cầu nguyện chúng ta hít lấy không khí của Chúa, và các ơn Thần linh. Sự hô hấp bị ngừng lại ư? Đó là tình trạng ngạt hơi, là chết đến nơi rồi. Sự cầu nguyện bị chấm dứt ư? Đó là linh hồn bị ngạt thở, là tội trọng, là cái chết siêu nhiên.
Thánh Anphongsô viết: "Phần tôi, tôi sẽ lập lại suốt đời rằng phần rỗi tuỳ thuộc ở sự cầu nguyện. Mọi văn sĩ trong tác phẩm của mình, mọi giảng thuyết viên trong bài giảng của mình, mọi cha giải tội nơi tòa thánh, tiên vàn cần phải nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại hoài: Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện không bao giờ chán. Có cầu nguyện, phần rỗi bạn sẽ được bảo đảm. Không cầu nguyện, bạn cầm chắc sẽ phải trầm luân. Những người trầm luân sỡ dĩ mất linh hồn là vì đã bỏ không cầu nguyện; điều luôn luôn làm cho họ tuyệt vọng nhất trong hỏa ngục là đã có thể được rỗi linh hồn dễ dàng là cầu nguyện mà bây giờ không còn khả năng xử dụng phương thế hữu hiệu đó nữa!...Tất cả các thánh trên Thiên đàng sỡ dĩ được cứu thoát bởi vì các Người đã cầu nguyện; các kẻ trầm luân phải mất linh hồn là vì không cầu nguyện...Ai cầu nguyện là tự cứu lấy mình; ai không cầu nguyện là tự mình trầm luân chính mình. Thánh Âu Tinh tuyên bố: "Ai biết cầu nguyện, người đó biết sống nên!".
Lý trí minh chứng cho chúng ta sự cần thiết đó.
Phải là gì để lập nên công nghiệp, để xa tránh tội trọng, để tuân giữ giới răn Chúa, để thắng vượt những cơn cám dỗ nặng nề, để chết trong ân sủng. Chúa Giêsu phán: "Không có Ta, các con không làm được chi cả!" (Jn 15:5) nghĩa là không ơn hiện sủng, không thể có phần rỗi. Mà theo quan phòng bình thường của Thiên Chúa, chúa chỉ ban ơn đó cho những ai cầu nguyện. Vâng, Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn không hề nghĩ tới. Nhưng, để ép buộc chúng ta nhìn nhận quyền tối cao của Ngài và sự thấp hèn của chúng ta, thì theo luật thông thường của việc quan phòng, Ngài đòi hỏi chúng ta phải cầu xin trước khi nhận lãnh.
Nên cầu nguyện nhất vào sáng sớm và chiều hôm, trước sau những bữa ăn, trong các cơn nguy biến và cám dỗ, và trước những hành động chính yếu trong ngày. Chúa Giêsu còn đi xa hơn khi người phán: "Phải cầu nguyện luôn luôn không bao giờ ngừng" (Lc 18:1). Phải hiểu mệnh lệnh này theo nghĩ đen: nghĩa là thôi làm việc, thôi ăn uống, thôi ngủ nghỉ, để luôn quỳ gối đọc kinh cầu nguyện chăng? Chắc chắn là không. Vậy làm sao có thể cầu nguyện liên lỉ được? Bằng ý hướng ngay lành. Trên thực tế, ý hướng ngay lành hệ tại ở việc mỗi sáng sớm dâng ngày cho Chúa và trong ngày năng nhắc tâm hồn lên kết hợp cùng Chúa, bằng những lời than thở vắn tắt, rất dễ dàng, nhưng rất đẹp lòng Chúa và rất hữu hiệu. Chúng gìn giữ tinh thần nguyện cầu và chiếm lấy ơn thánh từ trời một cách ngon lành bảo đảm. Bạn có thể nhận gấp bội, có thể nói được, đến vô tận. Trong những kinh vắn tắt, bạn hãy chuộng kinh Kinh Mến, là một kinh dễ nhất, đầy an ủi nhất, và đáng công nhất. Bạn hãy năng thưa: "Lạy Chúa, con yêu mến Chúa".
2. Cầu nguyện có sức vạn năng.
Cầu nguyện thật lòng, có sức vạn năng đối với Trái Tim Chúa. Chúa Giêsu Kitô bảo đảm với chúng ta điều đó. "Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở cửa cho. Vì ai xin sẽ nhận lãnh, ai tìm sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho" (Lc 11:9). "Tất cả những gì các con lấy đức tin mà cầu xin, các con sẽ được" (Mt 21:22).
Thánh Têrêxa Hài Đồng đã kêu lên "Ôi mạnh mẽ thay sức mạnh của lời cầu nguyện. Hệt như một nữ hoàng luôn luôn được tự do đến bệ kiến trước sân rồng và có thể luôn luôn nhận lãnh điều mình xin".
Bạn đang sống trong tình trạng tội lỗi, bị lương tâm rúc rỉa hành hạ và bạn không đủ can đảm cải quá tự tân? Phải làm gì? Hãy cầu nguyện đi. Lời cầu nguyện sẽ làm cho bạn được trở về cùng Chúa và cứu rỗi ban. Lời cầu nguyện có thể đạt tới mọi sự.
Bạn đang ở trong tình trạng ơn thánh ư? Lúc đó, lời cầu nguyện của bạn có một sức mạnh vô phương chống cưỡng. Tại sao? Vì ơn thánh sủng luôn nối bạn vào thân thể Chúa Kitô. Người là đầu. Bạn là chi thể. Đầu và chi thể được kết hợp với Chúa Kitô, nếu bạn cầu nguyện, thì chính là Chúa Kitô cầu nguyện trong bạn. Lời bạn cầu nguyện trở thành lời cầu nguyện của Chúa Kitô. Tất cả lời Chúa Kitô cầu nguyện biến nên lời bạn nguyện cầu. Lời bạn cầu nguyện vô nghĩa thật, nhưng lời Chúa Giêsu cầu nguyện lại vạn năng. Vì là lời cầu nguyện của Chúa Kitô, của con Thiên Chúa, nên lời bạn cầu nguyện cũng không kém toàn năng. Kinh thánh có ghi chép: "Thiên Chúa sẽ nhận lời cầu nguyện của những người công chính" (Prov 15:19). Chính những lời cầu nguyện của các Thánh, các linh hôn sống trong ơn thánh mà chúng ta thấy trong sách Khải Huyền, được tiến dâng lên trong những chén vàng, như hương thơm trước Tòa Đấng Vĩnh Cửu (Ap 5:8). "Nếu chúng con ở trong Cha nghĩa là kết hiệp với Cha nhờ ơn Thánh sủng và chúng con cứ xin mọi điều chúng con mong ước, chúng con sẽ được". Hãy nài nẵng. Hãy dám xin nhiều, cả đến phép lạ nữa. Lời bạn cầu nguyện có sức vạn năng cơ mà!
Có người cầu nguyện mà không được thỏa mãn điều nguyện xin. Tại sao thế? Bởi vì họ cầu nguyện không nên: không chăm chú, không khiêm cung, không tin tưởng, không bền đỗ. Hoặc vì họ xin những điều vô ích, hoặc có hại cho phần rỗi. Vài người, viện lẽ mình không được nhận lời, nên tuyên bố lời cầu nguyện vô ích và rút lui vào lâu đài bất mãn. Tuy nhiên Thiên Chúa không phải là một người phân phát máy móc, chỉ cần vặn dây là kéo ra được một cái gì! Không. Người nhân lành và khôn ngoan vô tận. Lắm khi chúng ta thật đáng trách, thật liều mình bị trầm luân, nếu Chúa chấp nhận mọi lời cầu xin của chúng ta. Có bà mẹ nào lại không từ chối cho đứa con mình lưỡi dao có thể gây thương tích? Bù lại, bà lại cho một cái gì ngon hơn, kẹo bánh chẳng hạn. Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta hơn cả lòng mẹ thương con. Một hôm mẹ Giacôbê và Gioan đến gần Chúa Giêsu và xin cho hai con bà ngồi trên ngai cạnh Chúa. Chúa Giêsu từ chối, nhưng lại ban cho các ông một ngai tòa trên nước trời. Thiên Chúa nhận lấy mọi lời cầu nguyện chân thành, hoặc ban điều chúng ta nài xin, hay ban một cái gì khác hữu ích hơn.
Ngày xưa có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời nguyện bằng câu: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con!" Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ Thánh Tôma thành Cantôbêry để ông xin người ban cho ông được sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông được sáng lại. Khi nỗi vui mừng phấn khởi đầu tiên trôi qua, ông mới chợp nhớ là mình đã quên thêm vào lời nguyện cầu: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con!", ông liền trở lại viếng mộ. Ông xin được hóa mù lại, nếu bệnh mù lòa mang ích lợi cho linh hồn ông hơn là đôi mắt sáng trong. Ô kìa, ông ta đã mù trở lại thật. Nhưng từ nay ông sống rất đạo đức và chết trong hương trầm thánh thiện. Chúng ta xin nhiều điều sinh hại cho linh hồn mà mình cứ tưởng là bổ ích.
3. Cầu nguyện dễ lắm.
1) Thánh Âu Tinh bảo: "Cầu nguyện là linh hồn chuyện vãn với Thiên Chúa". Muốn bày tỏ cho một người bạn các tư tưởng, những tâm tình, các khát vọng của chúng ra, chúng ta làm gì? Chúng ta đi tìm người bạn và diện đối diện, chúng ta nói chuyện với họ. Hoặc viết một lá thư. Nếu quá gấp, chúng ta gọi điện thoại. Nếu hai người ở xa nhau quá, chúng ta gửi một điện tín hay vô tuyến truyền thanh. Chúng ta chuyện vãn với người bạn. Trong trường hợp đây cũng thế: chúng ta, người công giáo, chúng ta cầu nguyện, tức là chuyện vãn với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một máy vô tuyến tuyệt vời, hoạt đông với một tốc độc kinh khủng, nối liền không phải một góc trời này với một góc trời khác, mà là nối liền đất với trời. Cầu nguyện là một cuộc chuyện trò, một buổi dốc bầu tâm sự với Chúa.
2) Thánh Gioan Đamacênô: "Cầu nguyện là nâng cao tâm hồn lên cùng Chúa". Nâng cao là một cử động từ thấp lên cao. Làm sao chúng ta có thể nâng cao linh hồn mình được. Tôi có thể nhấc bổng cánh tay tôi lên, lúc bấy giờ, cánh tay tôi di chuyển: có linh hồn, có phải cùng di chuyển như thế, trong khi cầu nguyện chăng? Không. Ngàn lần không. Tôi có thể ngước mắt lên, ngắm nhìn bầu trời bao la: Mắt tôi không di chuyển gì cả, chúng vẫn nằm lì tại chỗ, cái hướng dưới cao", từ dưới lên cao", chính là cái nhìn; có phải linh hồn cũng tự nâng cao như thế lúc nguyện cầu không? Không. Linh hồn vẫn tại vị trí cũ, nhưng các tư tưởng cũng như khát vọng của linh hồn tự tách lìa khỏi trái đất, khỏi mọi của cải, mọi lắng lo, mọi khốn đốn trần gian, và bay bổng lên, bay bổng lên nữa, bay bổng lên mãi, lên mãi cho tới ngai tòa Thiên Chúa. Cầu nguyện là một cuộc nâng cao lên tới Chúa.
Bạn sẽ nói: "Khi cầu nguyện, tôi vẫn thấy nguội lạnh, khô khan, tôi chẳng thấy gì cả?" Rồi gì nữa? Bạn muốn nói lời cầu nguyện của bạn ít hiệu lực và ít công nghiệp phải không? Chúng tôi nói rằng cầu nguyện là sự nâng cao một cuộc chuyện trò của linh hồn với Thiên Chúa. Của linh hồn nghịa là của trí khôn và của ý chí, chứ không phải của cảm giác tính. Cầu nguyện mà không cảm thấy gì, vẫn chỉ thấy khô khan, có thể là cầu nguyện nên, cầu nguyện hoàn toàn. Thường như thế đẹp lòng Chúa hơn và có công trạng hơn, lý do là vì nó đòi hỏi nhiều cố gắng hơn, và chứng tỏ chúng ta ít được thỏa mãn cá nhân hơn.
Thiên hạ bảo đó chính là lời các linh hồn đơn sơ, nhưng sốt sắng. "Các linh mục, các tu sĩ, các tín hữu thông thái mới biết cầu nguyện. Còn tôi! tôi đâu có học hành gì mà...!" Cầu nguyện là một cuộc chuyện trò. Vấn đề không phải là có học hay không mới nói chuyện được. Cầu nguyện là một sự nâng cao. Chẳng phải là các linh hồn đơn sơ tự nâng cao tâm hồn một cách hết sức nhẹ nhàng đó sao? Cầu nguyện là một cuộc trò chuyện với Chúa, một sự nâng cao linh hồn lên cùng Chúa. Chẳng phải Chúa yêu những linh hồn giản dị hơn sao, bởi vì thường thường họ khiêm nhượng hơn?
Sự dốt nát và thiếu kiến thức không phải là chướng ngại vật của việc cầu nguyện sốt sắng. Ai lại không thể học đọc kinh lạy Chúa, Kinh Kính Mừng, lần hạt Mân Côi? Có lời cầu nguyện nào cao siêu hơn không? Một người không có học, nhưng biết cầu nguyện, sớm muộn sẽ hiểu biết nhiều điều về Thiên Chúa và linh hồn.
Có một Đức Giám Mục trên đường kinh lý địa phận, ghé thăm gia đình một bà lão. Người ta trình Người hay bà là tấm gương cho cả làng soi chung. Trong nhiều câu hỏi, Đức Giám Mục có hỏi bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất. "Thân lạy Đức Cha, con không biết đọc".
- Nhưng bà cầu nguyện nhiều lắm cơ mà?
- Thân lạy Đức Cha, con chỉ biết tràng hạt Mân Côi: Kinh lạy cha, kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính. Một ngày con khởi sự đọc đến 10 lần, nhưng thường thì con không đọc xong.
- Tại sao vậy?
- Là vì khi con bắt đầu đọc: "Lạy Cha chúng con", con không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già khốn nạn như con được gọi Ngài là Cha. Điều đó làm con phải khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được.
- A, này bà, đó là một lời cầu nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôi. Bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo kiểu đó".
Cha sở họ Ars thường thấy một bác nhà quê trong nhà thờ người. Lắm khi ông ta mang theo cả dụng cụ, mai, xẻng, cuốc. Cha sở nhận thấy không bao gì bác cầm sách, cầm chuỗi gi cả. Ông chỉ việc nhìn trước mặc, nhìn nhà tạm. Một hôm cha hỏi: "Này bác, bác hãy nói cho tôi nghe, khi bác ở trong nhà thờ này, bác đọc kinh gì?" Bác nhà quê trả lời: "Thưa cha, thường con không thể cầu nguyện được. Lúc đó con nhìn Chúa Giêsu và Chúa Giêsu nhìn con. Cha sở thánh đã hiểu ông. Ước gì chúng ta cũng có hoặc cũng được lấy một tý của lời cầu nguyện của bác nhà quê đó.
Chúng ta hãy thơ ngây như cậu bé giúp lễ, khi đến trễ, đã bái gối chậm rãi rồi đi lấy bình rượu nước. Cha sở nhắc cậu rằng, trước hết, con phải cầu nguyện rồi". "Đâu?" "Vâng. Con đã nói: Lạy Chúa, con xin chào Chúa. Rồi con đi lấy rượu nước". Ngắn. Đơn sơ. Tuyệt.
Một hôm Anna đệ Guy Nhê (Anne de Guigné) hỏi mẹ:
Thưa mẹ, mẹ có thể cho phép con cầu nguyện mà không dùng sách khi dự lễ không?
- Để làm gì?
- Bởi vì con thuộc hết các kinh và con thường chia trí. Còn khi con nói chuyện với Chúa Giêsu, con không lo ra tí nào cả. Mẹ ạ, giống như khi nói chuyện với một người nào, mình biết rõ điều mình nói:"
- Thế con có gì nói với Chúa Giêsu nào?
- Con nói rằng con yêu mến Người. Rồi con nói với Chúa về mẹ, về những người khác, để xin Chúa biến tất cả nên trọn lành. Con nói với Người nhất là về những người tội lỗi". Rồi đỏ mặt một chút, cô bé nói thêm: "Rồi, con nói với Người biết con muốn được gặp Người lắm!".
Thánh Têrêxa Hài Đồng viết: Muốn được đắt lời, chẳng cần phải đọc trong sách một công thức hay ho đã được sáng tác theo hoàn cảnh; nếu quả thực như thế, tôi đáng người đời thương hại biết bao!...Đôi khi trí khôn tôi khô khan kinh khủng đến nỗi tôi không tài nào rút nổi lấy một tư tưởng đẹp cả. Lúc đó, tôi đọc rất chậm rải một linh Lạy Cha hay một kinh Kính Mừng. Chỉ các kinh đó mới làm tôi say sưa. Chúng nuôi dưỡng hồn tôi một cách thần diệu và rất đầy đủ cho linh hồn tôi".
Cầu nguyện có thể có mục đích thờ phượng Thiên Chúa, cảm tạ Ngài vì mọi ơn lành Ngài ban, kêu xin Ngài thứ tha mọi tội lỗi và khẩn cầu Ngài đổ tràn ơn thánh. Nhất là chúng ta cần phải kêu xin các ơn cần thiết và bổ ích cho phần rỗi chúng ta cũng như phần rỗi nhân loại. Chúng ta được phép cầu xin được của cải trần gian miễn sao xin với lòng tùng phục thánh ý Chúa.
Có hai loại cầu nguyện: cầu nguyện bằng môi miệng và cầu nguyện bằng tâm trí.
Kinh đọc ngoài môi xuất phát tự tâm hồn và được diễn tả qua lời nói. Các kinh hay nhất là kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Tin Kính, các điều răn, kinh tin cậy mến, các kinh sớm chều, các kinh phụng vụ Giáo Hội, nhất là trong Thánh lễ. Khi bạn đọc các kinh đó bằng môi miệng thôi, mà tâm hồn không có, bạn có cầu nguyện không? Không. Cũng như đặt một chiếc máy hát thay chỗ bạn. Nó có thể cầu nguyện cho bạn, miễn là phải vặn dây trước...Cầu nguyện là một sự nâng cao tâm hồn, nâng cao con tim. Nếu thả lòng mình "đi chơi", thì làm gì có chuyện cầu nguyện đây!.
Bạn bảo: "Tôi không tìm thấy quyển sách kinh nào thích hợp cho tôi cả!"
- Bạn sẽ không bao giờ tìm được quyển sách đó. Lý do rất giản dị: không có. Không phải vì quyển sách đó được viết bậy bạ đâu, nhưng vì nó được viết do một người khác. Những tâm tình tác giả gợi lên, không đánh động bạn tí nào. Đúng lắm. Vì những tâm tình đó là của tác giả chứ đâu phải của bạn. Cầu nguyện không phải là sự nâng cao của linh hồn tác giả, song là của linh hồn bạn. Không gì riêng tư cho bằng cầu nguyện. Một em bé muốn nói chuyện với mẹ em có khởi đầu bằng chui vào thư viện để tìm một cuốn sách "chỉ nam nói chuyện" hay một quyển "hợp tuyển các lời chúc mừng" không? Dĩ nhiên là không. Em bập bẹ những tâm tình của chính em. Và bà mẹ chắc chắn sẽ khoái những công thức "dở đó", bởi vì con bà đã đặt trọn con tim vào đó.
Nguyện ngắm là một hình thức tâm nguyện. Nguyện ngắm là suy nghĩ về một chân lý hoặc một sự kiện tôn giáo với mục đích tỏ lòng tôn kính Chúa, để thổ lội với Ngài các nhu cầu của chúng ta và để được trở nên tốt lành hơn.
Nguyện ngắm thuộc tầm tay của mọi người, già trẻ, thông dốt. Mỗi người suy nghĩ về công việc làm của mình, về những vấn đề trần thế của mình. Chúng ta lại không thể suy nghĩ về việc phần rỗi sao? Chúa không đòi hỏi những suy tư sâu sắc cao siêu. Vài ý nghĩ đơn sơ, vài tâm tình tự con tim, một cái quyết định. Một kinh cầu nguyện, thế là hết. Với một chút thiện chí, không ai lại không thể thực hiện được bấy nhiêu. Nếu chúng ta thấy nhiều người dốt nát, nhiều anh chị em lao động, nguyện ngắm hằng ngày.
Để khích lệ bạn, tôi xin kể một câu chuyện nho nhỏ rút từ cuộc đời cha Allemand. Vị linh mục khả kính, đấng sáng lập các Hội đoàn thanh thiếu niên ở Mác xây (Marseille), đã bắt buộc 400 thanh thiếu niên dưới quyền người quản sóc phải nguyện ngắm mỗi sáng 15 phút. Những bạn trẻ này đều đang sống giữa chợ đời, với bao câu chuyện từ việc học hành tới việc thương mại. Thế mà, họ không bỏ nguyện ngắm ngày nào. Một bạn trẻ đã thuật lại: "Phương pháp nguyện ngắm tôi theo thật giản dị: Sau khi đọc xong kinh Chúa Thánh Thần, tôi đọc sách một tí, rồi suy nghĩ, rồi đọc tiếp, rồi lại dừng lại, lượm lặt những điều đã xúc động tôi; rồi tôi dốc lòng vài điều. Mười lăm phút trôi qua, tôi đọc kinh Trông cậy (Sub tuum) Thế là xong". Chàng thanh niên đó vì bỏ bê nguyện ngắm, nên đâm ra sống bê bối. Nhưng mười lăm tháng sau, chàng lại bắt đầu tiếp tục, và vẫn trung thành theo phương pháp trên. Chúa đã dẫn chàng đến một mức nguyện ngắm rất cao, mà chính chàng cũng không biết. Khó ư...Thử coi!
Nguyện ngắm gìn giữ chúng ta trong ơn nghĩa thánh. Thánh nữ Têrêxa đã quả quyết: "Bạn hãy hứa với tôi mười lăm phút nguyện ngắm mỗi ngày, tôi sẽ hứa với bạn nước Thiên đàng". Thánh Anphongsô thêm: "Nguyện ngắm và tội trọng không thể nào đội trời chung".
4. Thế nào?
Một thiếu phụ xứ Canaan. Bà tiến tới xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái của bà: "Lạy Chúa, con vua David, xin thương xót tôi, vì con gái tôi bị quỷ dữ hành hạ. Chúa Giêsu cứ tiếp tục đi, không trả lời. Các môn đệ liền thưa Người: "Thầy ban cho bà ấy điều gì bà ấy xin đi, chứ bà ta cứ chạy theo lẽo đẽo la lối hoài". Chúa Giêsu đáp: "Ta chỉ được sai đến tìm các chiên lạc của nhà Israel, rồi Người tạt vào thăm một gia đình. Người thiếu phụ bước theo quỳ ôm chân Người và khẩn cầu: "Lạy Chúa, xin hãy giúp tôi".
- "Không được lấy bánh của con cái (dân Do Thái) mà ném cho con chó (lương dân Canaan), Chúa đáp.
Người thiếu phụ thưa lại: "Lạy Chúa, đúng thế, nhưng chó con cũng có quyền ăn những mụn bánh từ bàn chủ rơi xuống chứ".
"Bị thua", Chúa Giêsu liền bảo: "Này bà, đức tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì được vậy"! Và ngay từ giây phút đó, đứa con gái của bà được lành bệnh. (ỵ Mt 15; Mc 7).
Người thiếu phụ Canaan dạy chúng ta cách thức cầu nguyện đấy. Bà đã làm gì?
1) Chẳng đếm xỉa đến quần chúng, bà chỉ nghĩ đến Chúa Giêsu và đứa con gái bệnh hoạn ở nhà. Bà chăm chăm chú chú nài xin.
Chăm chú cầu nguyện, tức là nghĩ tưởng đến người chúng ta đang khẩn cầu và đến điều chúng ta trình bày.
Bên Ấn Độ, người ta có chế tạo nhiều "Máy xay kinh" tức là những bánh xe đã chép sẵn các công thức cầu nguyện vào đó. Anh em lương dân đến xin quay "bánh xe" đó và ngỡ mình cũng đang cầu nguyện. Họ chép môi uốn lưỡi, thì thầm những công thức mà không hề tưởng nghĩ đến người họ đang trò chuyện, và điều họ đang cầu xin. Họ quên rằng cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cao, chứ không phải chỉ có chuyện khua môi chép lưỡi. Họ cầu nguyện chẳng chăm chú gì. Họ đáng lãnh nhận lời Chúa Giêsu trách móc người Biệt Phái: "Dân này chỉ thờ kính ta bằng môi mép, nhưng lòng nó xa ta". (Mt 15:8). Thánh Cyprianô hỏi: "Làm sao bạn hy vọng Chúa sẽ nghe lời bạn trong lúc chính bạn cũng không thèm nghe lời bạn!" Một thánh nhân khác nói: "Nhiều người đọc kinh thật nhiều, nhưng chỉ là công dã tràng xe cát biển Đông. Năm lời xuất phát tự đáy lòng có gái trị hơn năm ngàn câu nói bâng quơ không chú ý".
Chăm chú cầu nguyện là cố gắng hết sức đánh đuổi những chia trí. Sự chia trí luôn luôn là một tội và cướp mất giá trị của sự cầu nguyện phải không? Cần phải phân biệt. Chia trí hữu ý và chia trí vô ý.
Có dễ tránh chia trí không? Xin hãy lắng nghe câu chuyện sau đây: Một bác quê tự phụ không bao giờ chia trí trong khi cầu nguyện. Thánh Bernađô muốn chứng minh với bác điều ngược lại. Người bảo: "Này ông bạn, chúng mình hãy cam kết với nhau một điều. Nếu bạn đọc kinh lạy Cha mà không chia trí, tôi sẽ cho bạn con ngựa của tôi". Bác nhà quê chấp nhận liền. Nhưng khi mới đọc nửa chừng, bác ta dừng đọc quay hỏi thánh nhân: "Ngài cũng cho luôn cả dây cương nữa chứ?" Thánh nhân trả lời: "Chẳng ngựa mà cũng chẳng cương hết gì cả, bởi vì ông ban đang chia trí đấy! Ông chỉ được tôi chúc lành cho thôi". Chúng ta đừng hy vọng được may mắn hơn. Trong khi cầu nguyện, chúng ta thường nghĩ đến đủ loại "dây cương". Những thứ chia trí dồn dập kéo đến. Chúng ta hãt tránh các chia trí tự ý.
2) Người thiếu phụ Canaan làm gì? Bà tự thấy mình bị khinh dể, bị so sánh với loài chó. Bà cứ để người ta nói. Bà cầu nguyện với lòng khiêm cung.
Khiêm cung cầu nguyện, đó là nghĩ mình không đáng được nói với Chúa và nhận lãnh ơn Thánh Ngài.
Chúng ta là ai? Là người hành khất của Thiên Chúa. Một người nghèo xơ xác đến cạnh bạn rồi ra lệnh: "Phải cho tôi. Tôi có quyền tôi đòi hỏi điều đó". Chắc bạn sẽ trả lời: "Tôi mắc nợ gì anh. Cút đi!" Một người ăn mày khác đến năn nỉ: "Tôi là kẻ khốn nạn, xin ông thương tôi!" Bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ cảm xúc và bạn cho ngay.
Hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái nghênh ngang cầu nguyện: "Lạy Chúa, con cám đội ơn Chúa, vì con không phải như người ta, nào là trộm cướp, tham nhũng, dâm tà, cũng chẳng như tên thu thuế kia. Một tuần con ăn chay hai lần và của cải con đem phân phát đến một phần mười". Người biệt phái tự mãn tự đại. Từ đỉnh kiêu ngạo. Ông tự nhiên tưởng mình là chủ nợ của Thiên Chúa.
Còn người thu thuế trái lại. Đứng tự xa xa và ngước mắt lên trời cũng không dám. Nhưng ông đấm ngực than thở: "Lạy Chúa, xin thương tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi". Kẻ tội lỗi! Đó là lời tố cáo rất đau đớn với tiếng tự ái của chúng ta, nhưng lại bảo đảm cho chúng ta được ơn phúc nơi Chúa. Đó là tiếng kêu của David khóc lóc tội mình để khẩn cầu ơn thứ tha. Đó là tiếng kêu của chàng thanh niên phung phá chê ghét bước đường lầm lỗi và tìm lối trở về nhà cha. Đó là tiếng kêu của tất cả các bậc vĩ nhân mà Chúa đã đoái thương kéo từ đống bùn nhơ tội lỗi để nâng lên tột đỉnh thánh thiện. Chúa Cứu Thế kết luận: "Ta bảo các ông hay: Người thu thuế khi trở về nhà, đã được nên công chính, còn tên biệt phái thì không. Vì ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ tự hạ sẽ được nhắc lên. (Lc 18:8-14).
Ngay Cựu Ước đã tuyên bố "Thiên Chúa nghiêng mình xuống nghe lời kẻ khiêm nhượng cầu xin" (Ps 101:18) và "Lời cầu nguyện khiêm cung bay thẳng lên chốn trời cao" (Eccli 35:2).
3) Người thiếu phụ xứ Canaan làm gì? Bà hy vọng hết mức. Không gì có thể khiến bà thất vọng: dù các môn đệ tỏ thái độ ít vồn vã và ít hứa hẹn, dù Chúa Giêsu im lặng đến lạnh lùng, dù Người từ chối khẳng khái và có vẻ quyết liệt đến ghê rợn. Bà cầu nguyện với lòng tin tưởng vững vàng.
Vững tin cầu nguyện. Là hy vọng vững vàng Thiên Chúa, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, sẽ nhận lời chúng ta nguyện xin. Lòng tin tưởng vững vàng gây nên nhiều phép lạ. Người thiếu phụ xứ Canaan vừa mới thí nghiệm xong, Chúa Giêsu liền bảo bà; "Đức tin bà lớn thật. Bà muốn sao thì được như vậy!" (Mc 7:29). Và ngay từ phút đó, con gái bà được khỏi bệnh.
Một thiếu phụ, đã từ 12 năm qua, mắc bệnh băng huyết. Bà chạm vào gấu áo của Chúa Giêsu. Chúa quay lại bảo. "Hỡi con, hãy vững tin, đức tin con đã cứu con" (Mc 5:34).
Phêrô bước xuống thuyền, đi trên mặt nước tiến đến cùng Chúa Giêsu, nhưng thấy gió thổi mạnh, ông phảt sợ. Thế là ông bắt đầu chìm xuống nước. Tức khắc Chúa giang tay nắm lấy ông và nói: "Hỡi người kém tin, tại sao lại hồ nghi?" (Mt 4:31). Chúa Giêsu không trách móc ông vì đã đi trên mặt biển, nhưng vì ông đã mất lòng tin tưởng. Một hôm Thầy Chí Thánh bảo các môn đệ: "Nếu đức tin chúng con lớn bằng hạt cải, chúng con sẽ di chuyển được cả núi đá" (Mt 17:20).
Lòng tin vững vàng là chiếc bình chúng ta dùng để múc ơn thánh nơi nguồn mạch. Bạn dùng một chiếc bình lớn ư? Bạn sẽ múc được nhiều. Một bình nhỏ ư? Bạn sẽ được ít. Bạn không có bình nào ư? Bạn sẽ chẳng múc được gì!.
Tại sao lại phải cầu nguyện với lòng tin tưởng vững mạnh? Bạn thưa gì với Chúa khi đọc kinh cậy? "Lạy Chúa tôi, tôi trông cậy vững vàng...Vì Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng, đã phán hứa sự ấy chẳng có lẽ nào sai được! "Thiên Chúa chẳng phải là Cha và là Cha tốt lành nhất sao? Nếu con cái các ông xin bánh, các ông lại đi lấy hòn đá cho chúng nó sao? Nếu nó xin trứng, các ông lại đưa cho nó bọ cạp ư? Vậy nếu các ông dẫu quái ác, sánh với Thiên Chúa là chính sự nhân lành, mà còn biết lấy điều tốt lành cho con cái, thì Thiên Chúa sẽ ban điều lành gấp bội phần cho những kẻ cầu xin Ngài" (Lc 11).
Bạn lại bảo; "Tôi không đáng được nhận lời" Có thể. Bởi sức riêng bạn, bạn không làm gì được cả, nhưng nhờ công nghiệp Chúa Giêus Kitô, bạn làm được mọi sự. Con Chúa nhập thể, đời sống Người, công việc Người, những đau khổ Người chịu, cuộc tử nạn của Người: chẳng phải là bấy nhiêu công nghiệp vô biên đấy ư?
Những công nghiệp đó không thuộc về bạn sao? Và Thiên Chúa sẽ từ chối bạn nhân danh Con Ngài vì công nghiệp Người mà cầu xin sao? Không. "Ta nói thật, tất cả những điều các con xin cùng Cha Ta nhân danh Ta, Ngài sẽ ban cho các con" (Jn 16:23).
4) Người thiếu phụ Canaan làm gì? Bà kêu xin mà không được gì cả. Bà xin thêm một lần nữa: vô ích. Lần thứ ba, bà được nhận lời. Bà cầu nguyện với lòng bền đỗ.
Bền tâm cầu nguyện, là cứ tiếp tục cầu nguyện dù Thiên Chúa trì hoãn lời chúng ta kêu cầu.
Bạn muốn vài thí dụ ở đây ư? Người bất toại trong phúc âm cầu xin được khỏi bệnh từ 38 năm rồi.
Bà Monica khẩn nài cho Âu Tinh, con bà, được cải tà quy chánh. Hằng ngày, bà tăng gia lời cầu nguyện, khóc lót, ăn chay, hãm mình. Một hôm bà thất vọng, đến hỏi ý kiến Thánh Ambrôsiô. Ví Giám Mục trả lời: "Bà cứ yêu trí, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư mất được". Mười năm đằng đẵng, con bà nay đã trở lại.
Một dụ ngôn trong Phúc Âm sẽ giúp chúng ta dễ hiểu vấn đề. Giữa đêm khuya, một người kia có người bạn vừa đi du hành về đói khát mệt nhọc ghé qua. Ông ta chẳng còn gì sẵn để đãi bạn cả. Làm sao đây? Ông dậy gõ của người láng giềng. Từ bên trong có tiếng vọng ra: "ai đó" "Người lân cận của bác đây. Tôi đang cần ổ bánh mì cho người bạn vừa mới đi xa về!" "Thôi ông để tôi yên đi: Cửa đã đóng rồi, con cái và tôi nữa, đã nằm kỹ trong giường cả rồi. Tôi không chỗi dậy được" "Cần lắm bác ơi". Rồi ông ta bắt đầu gõ cửa lớn, đập cửa sổ, la hét ầm cả xóm. Kết quả ra sao? Người láng giềng chỗi dậy, lấy bánh đưa cho ông, không phải để thỏa mãn lòng ông láng giềng, nhưng để trút khỏi tên "ăn mày" không hợp thời hợp cảnh (Lc 11).
Chúng ta cần tưởng lại rõ ràng quang cảnh đó. Dân quê xứ Palestina ngày nào lo nướng bánh ngày đó chứ không hề nghĩ đến những cuộc viếng thăm ban đêm. Người Đông phương sau khi hoàng hôn buông xuống, không thích du hành, như thể họ bị ám ảnh một nỗi mê tín lơ sợ bóng đêm. Người trong bài dụ ngôn bị dồn vào thế bất ngờ. Ông ta chỉ còn cách chạy kêu cứu người hàng xóm mà ông biết có tính lo xa. Song vấn đề thực gay go. Các nhà đều đóng kín cửa khi bóng tối đã trở về bao trùm vũ trụ. Mọi người trong gia đình nằm dài bên cạnh nhau trên chiếu hoặc trên thảm, đang ngon giấc dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn chong, trong một căn nhà duy nhất đã được biến thành phòng ngủ. Không thể nào chỗi dậy, đi kiếm một vật gì, ra mở cửa rồi trở về nằm nghỉ mà không làm rộn giấc ngủ cả nhà. Người láng giềng khó tính có lý chữa mình đấy chứ. Chúng ta hiểu được vì sao ông ta để người hàng xóm phải nài xin nữa. Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng đành phải chấp nhận lời người đồng xóm kêu cầu. Sự đến không phải lúc khiến ông cam chịu điều mà chắc chắn ông đã không làm chỉ vì tình thương. Thật đúng câu tục ngữ: "Hãy gõ cửa, gõ mãi, gõ nữa đi, người ta sẽ mở cửa cho bạn".
CHƯƠNG 21
THÁNH LỄ
1. Thánh Lễ là gì?
Bossuet bảo: "Ở trần gian không có gì cao quý hơn Chúa Giêsu Kitô, và trong Chúa Giêsu không có gì cao quý hơn lễ hy sinh của Người". Các Thánh cũng đồng một lập trường: Thánh lễ khác biệt với các việc đạo đức nhỏ mọn của chúng ta, như thể một ngọn đèn dầu nhỏ xíu sánh với mặt trời.
Lễ hy sinh trên bàn thờ chính là lễ hy sinh trên Thánh Giá, cũng một Linh Mục, cũng một lễ vật dâng tiến. Có khác là phương thức tiến dâng mà thôi.
1) Cũng một linh mục. Đến phút truyền phép, vị linh mục ta thấy trên bàn thờ, cầm lấy bánh và chén rượu trong tay, Ngài không nói: "Này là thân xác Chúa Giêsu Kitô. Này là máu thánh Chúa Giêsu Kitô". Nhưng Ngài nói: "Này là mình Ta. Này là máu Ta". Ngài làm gì vậy? Ngài cho Chúa Kitô mượn tay Ngài và miệng Ngài, Ngài là vị thừa tác, vị đại diện, là dụng cụ của Chúa Kitô. Vị Linh Mục đích thực, chính yếu, chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong hy lễ bàn thờ và hy lễ thánh giá, chỉ có một vị linh mục duy nhất, là Chúa Giêsu Kitô.
2) Cũng một lễ vật. Ai được tiến dâng trên Núi sọ? Chính Chúa Giêsu Kitô. Trên bàn thờ? Chính Chúa Giêsu Kitô. Trong hy lễ bàn thờ và hy lễ Thánh giá, chỉ có một lễ vật duy nhất, là Chúa Giêsu Kitô.
Trng cả hai hy lễ, chỉ có một vị linh mục, một lễ vật. Phải kết luận làm sao đây? Là hy lễ bàn thờ chính thực là hy lễ thánh giá. Tuy hai mà một!.
3) Khác phương thức tiến dâng. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu Kitô để máu mình chan hòa tuôn xuống, máu xác lìa nhau, thế là cái chết xông tới. Trên bàn thờ, không còn đổ máu, vì từ lúc Phục sinh, thân xác Chúa Giêsu đã được vinh hiển không còn bị đau đớn. Nhưng máu xác xa cách nhau cách mầu nhiệm bởi vì các lời truyền phép tạo nên thân xác và máu thánh Người riêng rẽ dưới hình bánh rượu. Trên Thánh Giá, Người được tiến dâng cách đẫm máu, trên bàn thờ, cách không đẫm máu.
Thánh Lễ Misa có giá trị gì? Như hy lễ trên Thánh giá, lễ hy sinh trên bàn thờ cũng có một giá trị vô biên. Tuy nhiên, trong trật tự Chúa quan phòng đặt để, sự áp dụng chỉ được thực hiện cách hữu hạn.
Tại sao rất nhiều giáo hữu chẳng nghĩ gì đến tính cách tuyệt vời của hy lễ đó? Tại sao họ chẳng hiểu câu nói cao siêu của Bossuet: "Trong các Thánh đường chúng ta, mọi ngày đều là ngày Thứ Sáu tuần thánh!" Chân lý sơ đẳng mà ta học biết ngay trong thời học bổn trẻ em đó, đẹp đẽ, mãnh liệt, bổ sức biết bao! Thường năng suy ngắm chân lý đó thiệt hay biết mấy!.
2. Mục đích của Thánh Lễ
Chúng ta dâng Thánh Lễ:
1) Để thờ phượng Chúa: hy lễ thờ phượng.
Chúa là Đấng Tạo Hóa cũng là Chúa Cả muôn loài. Chúng ta phải thờ lạy Ngài. Trong Thánh Lễ, Chúa Giêsu Kitô tự dâng lễ toàn thiêu thay cho chúng ta, để thờ phượng Thiên Chúa. Thánh lễ là một việc thờ phượng có giá trị vô biên.
Bạn hãy tưởng tượng một phiên chầu phép lành trọng thể tại đền Thánh Phêrô ở Roma. 80 ngàn tín hữu sụp quỳ nơi đó. Đức Thánh Cha cùng với Hồng Y Đoàn chủ tọa nghi lễ. Những lời kinh, những khúc hát thiết tha cảm động vang lên. Buổi chầu kết thúc bằng cuộc kiệu Mình Thánh Chúa trên công trường Thánh Phêrô, trong sự phấn khởi của toàn dân. Bạn hãy thêm vào đó ngoại trừ Thánh Lễ. Các nghi lễ tôn giáo của mọi đại hội Thánh Thể của mọi cơ sở Công Giáo. Bạn hãy cộng vào đó cái chết của mọi thánh tử đạo, các nhân đức của mọi thánh hiển tu và đồng trinh, các lời chúc tụng ngợi khen của chư Thần thánh và của Đức Nữ Hoàng Thiên Quốc. Bện cạnh đó, bạn hãy đặt một Thánh Lễ, chỉ một Thánh Lễ thôi, được dâng tiến đâu đó trong một nhà nguyện nơi âm u hiu quạnh miền truyền giáo. Thánh lễ khiêm tốn đó ít gây ấn tượng nơi ta hơn một đám rước linh đình, nhưng đối với Thiên Chúa, nó có giá tri hàng triệu triệu lần lớn hơn. Tại sao? Lý do vì trong Thánh lễ, chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng "Chúa - Người" tự hiến mình cho Chúa Cha trên trời.
2) Để cảm ta Chúa vì muôn ơn lành Ngài ban: hy lễ tạ ơn.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn lành vô số, trên bình diện tự nhiên cũng như siêu nhiên. Chúng ta phải cảm tạ Ngài. Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu Kitô tự hiến toàn thân cho chúng ta, và thay chúng ta để dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thánh lễ là một việc tạ ơn có giá trị vô biên.
3) Để đền tội lỗi chúng ta: hy lễ đền tội.
Chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa, chúng ta phải xin lỗi Ngài, phải đền bồi tội lỗi chúng ta và các hình phạt đời này. Trong Thánh Lễ, chính Chúa Giêsu Kitô tự hiến toàn thân cho chúng ta và thay chúng ta để đền bồi Thiên Chúa. Thánh lễ là một việc đền tội có giá trị vô biên. Dĩ nhiên. Chúa Giêsu không thực sự đền bồi tội lỗi và các hình phạt chúng ta, bởi vì Người không còn chịu đau khổ nữa, nhưng, nhờ thánh lễ, Người áp dụng các sự đền bồi vô giá của hy lễ thánh giá.
Thánh lễ không những đền bồi cho chúng ta mà còn cho các tín hữu khác cũng như cho các linh hồn trong luyện ngục.
Ngày ngay, tội lỗi ngập lụt thế giới, sự bất lương và dâm đãng tấn công tất cả. Tại sao Thiên Chúa không phạt chúng ta? Bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, con Thiên Chúa tế lễ trên bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Chúa Cha và ngăn cản bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài.
Không thể đem được các tia lửa từ các ống khói tàu thủy tung toé. Nhưng các tia lửa đó không gây nên hỏa hoạn. Chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay. Không thể đếm được các tội ác hằng ngày từ trái đất xông lên và kêu đòi Thiên Chúa oán phạt. Nhưng, nhờ sức giải hòa của Thánh lễ, chúng bị đẩy lui vào lòng biển khơi của lòng từ bi Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống địa cầu.
Ở bên Ý. có một bức họa rất cảm động, diễn tả một linh mục đang dâng Thánh lễ. Trên đầu ngài, bốn Thiên thần bay lượn, miệng ngậm loa, sẵn sàng báo tin ngày chung thẩm cho khắp bốn phương trời. Song các ngài đợi thánh lễ đó được cử hành xong, thánh lễ cuối cùng do vị linh mục cuối cùng còn sống sót trên thế giới. Bởi vì lúc bấy giờ cơn Chúa thịnh nộ không còn một sức nào xoa dịu, ngọn lửa báo thù sẽ tuôn xuống trần gian. Bức họa đó chẳng phải là một hình thức diễn tả linh động sức mạnh vô biên của thánh lễ như là hy lễ đền tội sao? Thánh Léonard de Port Maurice đã nói: "Nếu không có thánh lễ, thì thế giới chúng ta đã bị nghiền nát dưới sức nặng của tội ác từ lâu rồi"".
Thánh lễ tha tội trọng thế nào? Một cách trực tiếp, giống như sự ăn năn tội trọn và việc xưng tội ư? Không, nhưng gián tiếp bằng cách cho ta được ăn năn trọn hảo và xưng tội nên.
Thánh lễ tha tội nhẹ. Thế nào? Cách gián tiếp. Bằng cách cho ta được ăn năn tội ít nữa là cách bất toàn nhưng đủ để tha tội nhẹ. "Tội nhẹ tan chảy trong lửa hồng" (Cochem). "Chỉ nhờ một kinh Lạy Cha đọc tận đáy lòng đồng thời ăn năn tội ít nữa là cách bất toàn, ta đền bồi được các tội nhẹ, huống hồ là nhờ Thánh lễ Misa" (Thánh Âu Tinh).
Thánh lễ tha thứ các hình phạt tạm thế nào? Cách trực tiếp: Thiên chúa trực tiếp nhận thánh lễ đền bồi hình phạt tạm mắc phải vì tội, ở đời này hoặc đời sau.
Thánh lễ đền tội cho các linh hồn luyện ngục. "Khi ta cử hành thánh lễ, có nhiều linh hồn được ra khỏi lửa luyện tội" (Thánh Hiêrônimô). "Các Thiên thần từ trời xuống, bay đến ngục luyện tội rồi mở cửa ra" (Thánh Gioan Kim Ngôn)..."Trong khi ta cử hành Thánh Lễ cầu cho một linh hồn qúa cố, ngọn lửa đang nung đốt linh hồn đó liền tạm mất sức nóng" (Thánh Giêgoriô).
4) Để cầu xin các ơn cần thiết: hy lễ khẩn cầu.
Chúng ta cần nhiều ơn hồn xác, cho chúng ta và cho tha nhân. Trong Thánh lễ, chính Chúa Giêsu Kitô tự hiến toàn thân cho chúng ta và cầu nguyện thay chúng ta. Thánh lễ là một kinh nguyện có giá trị vô biên.
Bạn ước mong gì cho mình bạn, cho linh hồn, cho thân xác? cho các công việc và cho các dự tính? "Kẻ dự lễ sốt sắng, thành công trong mọi việc, ngay ngày hôm đó" (Thánh Gioan Kim Ngôn". Thánh Philippê Nêri có thói quen cử hành Thánh lễ trước khi khỏi công làm một việc quan trọng; Lúc đó Ngài nắm chắc được thành công. "Thánh lễ cũng ban các ơn trần thế cho các tội nhân không chịu cải tà quy chính" (Cochem).
Bạn ước mong gì cho cha mẹ, bạn hữu, các ân nhân, cho Giáo Hội, cho các vị chăn chiên, cho xứ đạo, cho quê hương, cho các tội nhân, cho anh em lương dân, cho nhừng người hấp hối? Bạn hãy xin điều đó trong Thánh Lễ. "Điều bạn không xin được khi dự lễ, bạn sẽ khó được ở một lúc khác". (Thánh Gioan Kim Ngôn).
Giáo hội hằng mong muốn giáo hữu dự lễ trong tuần, và hằng ngày, nếu có thể. Tại sao Giáo Hội mong muốn như thế? Bởi vì Thánh lễ diễn lại hy lễ thánh giá, bởi vì Thánh lễ là phương thế tuyệt hảo nhất để tỏ lòng tôn sùng Chúa xứng với Chúa.
Bạn sẽ vặn lại: "Tôi không biết cầu nguyện" Bạn cứ đi dự lễ. Chúa Kitô sẽ cầu nguyện cho bạn. Lời bạn nguyện cầu sẽ là lời cầu nguyện vạn năng của Chúa Giêsu.
Bạn hỏi: "Tôi sẽ chết trong tình trạng ơn Thánh chứ? Đó là một câu hỏi vượt mọi câu hỏi khác. Nếu bạn không chết trong ơn thánh, thì dù kinh nguyện, dù việc lành, dù hãm mình, dù thánh lễ sau khi bạn qua đời, cũng chẳng giúp bạn được gì hết. Cây ngả chiều nào, sẽ ngã nằm chiều đó. Bạn chết lành ư? Phải, nến bạn có cầu nguyện.
Kẻ có cầu nguyện chắc chắc sẽ chết trong ơn thánh. Mà có cầu nguyện nào quyền năng hơn Thánh Lễ Misa? Vì chính nơi đây Chúa Giêsu Kitô, thay thế bạn, khẩn cầu cho bạn được ơn bền đỗ đến cùng. Chính nơi đây Người áp dụng cho bạn các công nghiệp do cái chết của Người trên Thập giá! Bạn hãy nói cho tôi biết, lời cầu nguyện đó có thể nào lại không được chấp nhận không?
Giáo Hội mong muốn các giáo hữu dự lễ trong tuần, và hằng ngày, nếu được.
Thỉnh thoảng có người bảo? "Chỉ tổ mất giờ" Không đâu, nhưng sẽ mất một kho tàng quý giá, nếu ta không dự lễ.
Bạn làm gì khi bạn tự ý bỏ lễ, dù chỉ một Thánh lễ thôi. Bạn bỏ không dâng Chúa một việc thờ phượng và một việc tạ ơn vô giá. Bạn cướp mất của Thiên đàng một niềm vui bao la. Bạn làm cho Giáo Hội mất những sự trợ giúp quyền năng, cho cha mẹ, bạn hữu thiệt thòi nhiều ơn lành vô biên, cho các linh hồn luyện ngục thiếu sự xoa dịu và hình phạt không được rút ngắn lại. Bạn đánh mất chính của bạn nhiều công nghiệp lớn lao, sự thứ tha những tội lỗi hình phạt tạm cùng đủ thứ ơn lành xác hồn. Thánh Benađô nói: "Khi dự một thánh lễ, bạn có thể lập công nghiệp nhiều hơn người dùng cả gia tài để an ủi kẻ cơ bần, đói khát, hơn người đi hành hương đến tận cùng thế giới, và đem hết lòng sùng kính viếng thăm các đền thơô ở Roma cũng như tại Thánh địa". Bạn hãy giả thiết thiên hạ bảo bạn: "Trong nhà thờ xứ, người ta vừa mới khám phá một mỏ vàng; một sáng, bạn có thể đến đấy hốt tha hồ trong vòng nửa giờ". Thử hỏi có người bổn đạo nào bỏ ngoài tai lời kêu gọi đó không? Mà, chỉ có một thánh lễ cũng có giá trị hơn tất cả vàng bạc thế gian. Người công giáo ai ai cũng biết. Bà ta ngạc nhiên tự hỏi sao họ lại có thể ngôn hành tương phản như vậy được nhỉ?
3. Tham dự lễ thánh.
Nhiều người dự lễ như một việc sùng kính. Thánh lễ tiên vàn phải là một việc tiến dâng. Trong Thánh lễ, Chúa Kitô, vị thủ lãnh của chúng ta, là linh mục và lễ vật, là chi thể của Người, chúng ta cũng là linh mục và lễ vật với người. Người là vị linh mục chính yếu, chúng ta, những linh mục phụ thuộc. Chúa Giêsu cùng chúng ta: Là linh mục tràn đầy, là lễ vật vẹn toàn. Xoay về phía bàn thờ, vị linh mục hữu hình biết mình nói nhân danh cả cộng đoàn giáo dân tham dự: "Lạy Ba Ngôi cực thánh, xin đoái nhận lễ vật chúng con dâng tiến Chúa...Lạy Chúa, chúng con khẩn nài Chúng thương nhận lễ vật các tôi tớ Chúa tiến dâng". Là chi thể Chúa Kitô, chúng ta tiến dâng". Là chi thể Chúa Kitô, chúng ta tích cực tham dự vào hy lễ. Thánh lễ có một linh mục cách cộng đoàn và xã hội tuyệt vời.
Đến Kinh "Anh chị em hãy cầu nguyện", vị linh mục hữu hình chẳng bảo: "Anh chị em hãy cầu nguyện để hi lễ của tôi và của anh chị em..." sao? Hi lễ của thánh lễ, chính là Chúa Giêsu, cộng thêm vị Linh mục hữu hình, cộng thêm chúng ta.
Nếu là hi lễ, chúng ta phải được hy tế. Làm sao được. Bằng cách chúng ta tự tiến dâng cho Thiên Chúa và chết cho chúng ta, cho tội lỗi, cho tính hư nết xấu, cho các đam mê chúng ta, cho tất cả những gì nơi chúng ta không làm đẹp lòng Chúa Kitô, vị thủ lãnh của chúng ta. Bạn hãy nghe tác giả sách "GƯƠNG PHÚC" (hay: Gương Chúa Giêsu): "Lời Chúa Giêsu phán, Xưa Cha giang tay trên Thánh Giá, chịu chết trần truồng. Cha đã tận hiến toàn thân cho Đức Chúa Cha vì tội con. Cha đã tiến tất cả không giữ lại tý gì, để làm nguôi cơn giận Đức Chúa Cha. Cũng thế, hằng ngày khi tiến lễ, con cũng hãy tình nguyện và hết sức thành tâm dâng trót mình con, cùng với trót tài năng và ước muốn của con, cho Cha làm lễ vật trong sạch và trọn hảo". (GP 4, 8). Tham dự Thánh lễ với tư cách chỉ thể sống động của Chúa Kitô, tức là sự thiến thân cho Chúa, là tự chết với mình: không những trong thánh lễ, mà cả trong suốt ngày, thời gian giữa Thánh lễ này với Thánh lễ khác.
CHƯƠNG 22
RƯỚC LỄ
1. Hiệu quả của việc Rước lễ.
Trong bữa tiệc ly, Chúa Kitô "Sau khi đã yêu mến các kẻ thuộc về Người còn trong thế gian, thì Người đã yêu mến họ đến cùng" (Jn 13:1). Nghĩa là đến thành lập bí tích Thánh thể. Trong bí tích uy nghi này, có thể nói, Người đã trút cạn kho tàng phong phú của tình yêu Người. Theo thánh Augutinh: Dù là Đấng Toàn năng, Người cũng không thể cho gì hơn thế được. Dù là Đấng Khôn ngoan thượng trí vô cùng, Người cũng không biết ban gì hơn thế nữa. Dù giàu sang phú quý vô biên, Người cũng không còn phương tiện nào cho nhiều hơn.
Quý giá biết bao những hiệu quả do việc Rước lễ nên đem lại!
1) Rước lễ nên kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô. Chính Chúa phán: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong họ" (Jn 6:56). Vả lại tiếng "Hiệp lễ" Rước lễ, chẳng có nghĩa là "Kết hiệp chúng ta với lễ vật, là chính Chúa Kitô" đấy sao?
Kết hiệp với Chúa Kitô thế nào?
Giữa các tạo vật, có nhiều mức độ và hình thức kết hiệp:
Kết hiệp giữa hai bạn thân, bằng những mối dây bằng hữu, sự tâm đồng ý hợp.
Kết hiệp giữa cha mẹ và con cái, giữa anh em, bằng mối dây khí huyết.
Kết hịêp giữa vợ chồng công giáo, bằng các mối dây siêu nhiên và bất khả phân ly do Bi tích hôn nhân ràng buộc.
Sự Rước lễ, hiệp lễ, cũng kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô như vậy chăng? Không, Rước lễ kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, một cách mật thiết hơn nhiều. Như thế nào? Như món ăn kết hiệp với người ăn vậy. Miếng bánh mì bạn bỏ vào miệng, chạy tuột xuống bao tử: rồi sao nữa? tiêu hóa. Kết hiệp mật thiết với bản thể bạn và tự biến thành bản thể bạn; miếng bánh mì đó không còn phải là bánh mì nữa, nhưng là thịt bạn, máu bạn. Rước lễ cũng kết hiệp chúng ta với Chúa Giêsu như thế. Chúa Giêsu tuyên bố: "Thịt Ta là thật của ăn Máu Ta là thật của uống" (Jn 6:55).
Dĩ nhiên, khi rước lễ, không phải xác Người, máu Người biến hóa thành bản thể chúng ta, vì Chúa Kitô không thể biến đổi và thể chất thượng đẳng không thể biến hóa thành thể chất hạ đẳng được. Nhưng, sự thay đổi được thực hiện. Có thể nói, chúng ta được biến hóa thành Chúa Kitô. Xưa Thánh Âu Tinh nghe một tiếng từ trời phát xuống: "Không phải con biến đổi Cha thành con như thể biến đổi các món ăn thành thịt máu con, nhưng con sẽ được biến đổi thành Cha" (Conf VII 10). Thánh nữ Mađalêna thành Pazzi, một hôm, sau khi Rước lễ, cho biết, đã thấy linh hồn mình kết hiệp với Chúa và được biến hóa thành Chúa. Thánh nữ còn thêm: "Lúc đó, trong thân xác hay đã lìa khỏi xác; dưới đất hay đang ở trên trời; tôi không thấy gì khác ngoài Chúa". Khi rước lễ, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô rằng: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Ga 2:10).
Thánh Apollô thành Alexandria quả quyết: "Giống như hai miếng sáp ong đã tan chảy với nhau bây giờ chỉ làm thành một khối, thì kẻ rước lễ cũng được kết hiệp với Chúa Kitô mật thiết đến nỗi Chúa Kitô ở trong kẻ ấy và kẻ ấy trong Chúa Kitô". Thánh Gioan Kim Ngôn cũng tuyên bố: "Nhờ rước lễ, chúng ta được "trộn lẫn" với Chúa Kitô".
2) Rước lễ kết hiệp chúng ta với nhau. "Vì Bánh chỉ có một, nên chúng ta tuy đông, mà cũng chỉ là một thân mình, vì hết thảy chúng ta thông phần vào Bánh độc nhất" (1 Co 10:17). Công đồng Triđentinô gọi việc rước lễ là "một dấu hiệu hiệp nhất, một mối dây bác ái, một biểu trưng hòa bình và thuận hoà" (13:7). Rước lễ san phẳng nhân loại: "Cùng một bàn ăn được dọn cho vị Hoàng Đế mặc áo cẩm bào đỏ tía và cho kẻ cơ bần đang nài nẵng một vật bố thí" (Thánh Gioan Kim Ngôn).
3) Rước lễ gia tăng ơn thánh sủng. Đồng thời rước lễ còn tăng cường các nhân đức siêu nhên: ban nhân đức đối thần: tin cậy, mến nhất là đức mến, vì mến Chúa yêu người là cứu cách đặc biệt của bí tích Thánh Thể. Các nhân đức luân lý và các ơn huệ Chúa Thánh Linh. Thánh Louis Bertrand tâm sự rằng những khi người cảm thấy lạnh, thì thường rước lễ thông ban cho người sức nóng. Hồn xác người lúc đó tựa hồ một lò lửa cháy bừng. Lòng bác ái người cảm thấy sau rước lễ thật sâu sắc.
Tất cả các bí tích chúng ta lãnh nhận trong tình trạng ơn thánh đều đóng vai trò gia tăng ơn thánh, các nhân đức và những ơn huệ, nhưng đặc biệt nhất là sự rước lễ, vì rước lễ không những đem lại cho linh hồn thêm ơn thánh, mà còn kếp hiệp chúng ta, trong một thời gian, với chính tác giả của ơn thánh. Rước lễ, là uống ơn thánh, không phải nơi một nguồn phát. Tương truyền con chim bồ công tự xé ngực mình để lấy máu nuôi con. Chúa Kitô cũng thế. Sau khi nhìn khắp quanh Người, moi móc đào xới cả trái đất mà không tìm được gì thích hợp với con cái Người, Người đã mổ chính quả tim thần linh Người và phán: "Chúng con hãy ăn đi, này là Mình Cha, hãy uống đi, này là Máu Cha". Rước lễ, là ăn uống Chúa Kitô, là ăn uống Sự Sống.
Rước lễ tăng thêm vinh quang vĩnh cửu của ta, bởi vì, vinh quang thiên đàng hoàn toàn tương ứng với trình độ ơn thánh ta được ở trần gian.
Bạn hỏi: "Trong các việc lành, việc nào đáng công nhất? "Chính là việc rước lễ. Trên một đĩa cân, bạn hãy đặt hết các kinh nguyện, các việc hãm xác, các việc bác ái đã thực hiện trong một ngày, một tuần, một tháng, rồi đĩa bên kia, bạn hãy đặt một lần rước lễ, một lần thôi, nhưng một lần rước lễ thật sốt sắng. Cán cân sẽ nghiêng về phía rước lễ. Thánh Gioan Vianey nói rất hay: "Các việc lành khác là việc loài người, Thánh lễ, là việc Thiên Chúa". Tất cả mọi việc lành, so sánh với một lần rước lễ nên, chỉ là những hạt cát nhỏ xíu trước một quả núi khổng lồ.
4) Rước lễ tha thứ các tội nhẹ và những hình phạt tạm. Rước lễ tha thứ các tội nhẹ mà chúng ta hối hận ăn năn, vì các liều thuốc giải thoát chúng ta ra khỏi mọi lỗi thường ngày". Theo như Công đồng Triđentinô đã quả quyết (Trid 13:12). Rước lễ tẩy xóa các hình phạt tạm cách gián tiếp khi tăng cường lòng sốt sắng cho các việc bác ái chúng ta làm. Ai đếm được số tội nhẹ chúng ta phạm hằng ngày, trong tư tưởng, trong ước muốn, trong lời nói, trong việc làm, trong việc bỏ không làm! Ai nói được sự gay gắt và thời hạn các hình phạt tạm do các tội đó ngày qua ngày chồng chất mà chúng ta phải đền bồi hoặc ở đời này hoặc đời sau! Tư tưởng đó khiến chúng ta rùng mình, nhưng rước lễ làm vững dạ! Rước lễ tẩy xóa mọi tội nhẹ và những hình phạt tạm.
5) Rước lễ gìn giữ chúng ta khỏi tội trọng. Mithridate, vua xứ Pont, vì sợ bỏ thuốc độc nên hằng ngày vẫn uống một thứ thuốc phản độc. Thuốc công hiệu đến nỗi, khi ông muốn hủy thân bằng độc dược, ông không tài nào thành công. Rước lễ cũng tăng cường sức lực chúng ta như thế đấy. Thánh Kinh gọi rước lễ là "Bánh bởi trời ban xuống, để ai ăn không hề bị chết" (Jn 6:50), Thánh công đồng Tridentinô gọi rước lễ là "Một liều thuốc giữ gìn chúng ta khỏi sa phạm tội trọng" (13:12).
6) Rước lễ làm suy yếu dục vọng và các đam mê. Rước lễ gọi là "Bánh cách Thiên Thần" không phải vì các Thiên Thần ăn bánh đó. Các vị đâu có xác như chúng ta. Nhưng vì rước lễ làm cho chúng ta hoá nên trong trắng như các Thiên Thần.
Một thiếu phụ, bệnh hoạn đã mười hai năm, vừa sờ gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc bà được khỏi bệnh. Rước lễ, chúng ta không sờ đến áo Chúa, nhưng chúng ta ăn thịt Người, uống máu Người: làm sao chúng ta không được chữa khỏi mọi đam mê? Một thiếu phụ từ mười tám năm nay, bị còng lưng không thể ngước mắt nhìn trời được. Chúa Giêsu đã chữa bà lành bệnh. Có lẽ tính hư tật xấu đang giữ tay chân bạn trong bùn nhơ cũng đã lâu như thế. Can đảm lên! Rước lễ sẽ làm cho bạn đứng lên! Có người dân thành Gêrasa bị tà thần khuấy nhiễu, Chúa Giêsu đã giải phóng họ và tà thần đã xâm nhập vào đàn lợn. Có lẽ tà thần đàng chiếm hữu bạn cũng chẳng cao thượng hơn! Can đảm lên; Rước lễ sẽ cứu thoát bạn. Vì rước Lễ được gọi là "Bánh các kẻ được tuyển lựa, rượu làm trổ sinh các nữ trinh".
Trong nhiều viện mồ côi, Thánh Dom Boscô đã "nhặt nhặnh" được 200.000 trẻ bị bỏ rơi, chúng đã trở thành những giáo hữu vững bền, 6.000 em đã làm Linh Mục hoặc Tu Sĩ. Đâu là bí quyết của cuộc thay đổi đó? Các em năng rước lễ, đa số rước lễ hai tuần một lần, vài em rước lễ một ngày. Thôi chúng ta khỏi nhìn chi xa: giữa các bạn, tôi thấy được những thanh thiếu niên còn giữ vẹn toàn đóa hoa trinh khiết giữa các quyến rũ của trần gian. Đâu là bí quyết của sự trinh trong đó? Chính là nhờ năng rước lễ.
7) Rước lễ là nguồn an ủi thiêng liêng. Bởi vì đó là bí tích tình yêu. Quả tim chúng ta tìm được nơi sự xoa dịu khát vọng và niềm an ủi cho những nỗi vất vả đắng cay. Khi rước lễ, Thánh nữ Têrêxa cảm thấy được an ủi đến nỗi linh hồn người suýt tan biến vì vui sướng và yêu thương. Thường thường, khi sức người kiệt quệ vì những cơn cám dỗ và những nỗi cay cực tinh thần, người đi tìm bình an nội tâm trong việc rước lễ. Người tuyên bố rằng: thỉnh thoảng, các nỗi khổ đau phần xác người tan biến sau khi nhận phương thuốc thiên đình, chúng như bị quét sạch! Thánh Tôma nói: "Không có miệng lưỡi nào có thể diễn tả các niềm dịu dàng của bí tích đó, trong việc rước lễ, chúng ta tìm được sự dịu dàng ngay nơi nguồn phát sinh ra nó".
8) Rước lễ chuẩn bị thân xác chúng ta sẵn sàng đón nhận cuộc Phục sinh Vinh hiển. "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời, và ngày tận thế sẽ được phục sinh" (Jn 6:55). "Khi kết hiệp với thân xác chúng ta trong lúc rước lễ, Chúa Giêsu Kitô đặt trong chúng ta mầm sự sống và vinh hiển; đó là tàn lửa âm ỷ dưới lớp tro và ngày kia sẽ hủy diệt tất cả những gi ô uế do tội lỗi đã mang đến trong chúng ta; nó chỉ còn chờ hiệu kèn chung thẩm để trong chớp nhoáng biến hóa các thân xác các chính nhân và làm cho chúng nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Giêsu Kitô" (Thánh Irênê). "Đã chiến thắng sự chết, Chúa Giêsu cũng thắng sự chết nơi chúng ta; thân xác bất tử của Người sẽ biến chúng ta thành bất tử, tựa hồ mầm sống ở trong hạt giống làm cho hạt giống mọc lên, tựa hồ sức nóng, ở trong nước, làm cho nước sôi lên; tựa hồ tia lửa rơi vào đống rơm, làm cho nó cháy bùng lên. Chúa Giêsu Kitô sẽ tự phục sinh trong con người các kẻ rước lấy Người xuyên qua mọi thế hệ" (Baunard).
2. Phải rước lễ thế nào?
Muốn rước lễ xứng đáng, cần phải có những điều kiện gì? -Giữ chay Thánh Thể, -Sống trong tình trạng ơn thánh (sạch tội trọng), -Có ý hướng ngay lành. Muốn rước lễ sốt sắng, còn phải có gì hơn nữa? phải chuẩn bị kỹ lưỡng và làm việc tạ ơn tử tế, tùy theo khả năng, điều kiện và nghĩa vụ mỗi người.
1) Trước khi rước lễ, hãy chuẩn bị kỹ càng. Thánh Luy Gonzaga phân chia làm hai phần điều nhau khoảng cách giữa hai lần rước lễ. Ngài dùng phần trước để cám ơn Chúa về lần rước lễ qua; còn phần sau để sửa soạn buổi rước lễ sắp đến. Thật là việc hữu ích nếu mỗi lần rước lễ chúng ta dâng lên Chúa Giêsu một vài việc hồn xác; nhưng, hơn hết, mọi việc chúng ta tự do lựa chọn, chúng ta phải chăm chỉ chu toàn các nhiệm vụ của mình. Trong lúc dọn mình gần, bạn hãy suy ngắm về vẻ cao đẹp của Đấng bạn sắp tiếp rước; bạn hãy giục lòng tin, đức khiêm nhường và lòng thống hối, cậy trông, lòng kính mến và ước ao.
2) Sau khi rước lễ, bạn hãy cám ơn tử tế hẳn hoi. Thánh Philippê Nêri thấy một người nó vừa rước lễ xong đã vội ra khỏi nhà thờ. Tức khắc, ngài sai một chú giúp lễ, tay cầm nến sáng, đi theo hầu người đó. Ông ta quay lại rất đỗi ngạc nhiên. Cậu bé thưa: "Ông đang mang Mình Thánh Chúa. Mà Mình Thánh Chúa không bao giờ ra khỏi nhà thờ mà không có đèn chầu cả". Ông đã hiểu liền quay gót trở lại nhà thờ.
Thánh nữ Têrêxa nói: "Những giây phút sau khi rước lễ là những lúc quý báu nhất đời" Vừa rước lễ, bạn hãy thân thưa với Chúa Giêsu rằng: được chiếm hữu Người bạn hạnh phúc biết bao, bạn hãy hưởng sự hiện diện của Người, bạn hãy để tim bạn tràn đầy hân hoan bao lâu bạn còn thấy chút an ủi. Rồi bạn hãy giục lòng thờ phượng, cảm tạ, cầu xin, bạn trình tỏ những nhu cầu của bạn cũng như của những người thân thích, dâng hiến và dốc quyết. Bạn chớ quên đọc kinh: "Lạy Chúa Giêsu nhân từ và thương xót vô cùng..."
Đối riêng mỗi người, phương pháp tốt nhất là phương pháp mình thính nhất và làm cho mình sẵn sàng sống hy sinh nhất. Tuy nhiên, vì độc diệu phát sinh khô khan, nên thỉnh thoảng thay đổi phương pháp cũng là việc hữu ích.
Chúng ta nên nhớ rằng rước lễ nên, khi nào chúng ta có giữ chay Thánh thể, đang sống trong ơn thánh và có ý hướng ngay lành; chúng ta rước lễ sốt sắng, bao lâu chúng ta chiến đấu để sửa chữa các thiếu sót trong công việc chuẩn bị và tạ ơn; chúng ta rước lễ thực tiễn, khi nhờ đó, chúng ta chu toàn trọn vẹn hơn những gì, đối với mình, là thánh ý Chúa; tức là các việc bổn phận.
Đây câu chuyện một vị giảng thuyết đã thuật lại. Một thiếu nữ nghèo với tuổi đôi mươi đã kết hôn với một anh công nhân. Cả hai sống nghề trông tỉa. Mười một đứa con chào đời. Phải làm lụng cực nhọc mới đủ cung cấp cho bấy nhiêu miệng ăn. Tuy nhiên, sau khi săn sóc cả gia đình, sau khi đem rau cải ra bán ở chợ thành lân cận, bà mẹ dũng cảm đó vẫn tìm thấy can đảm đi rước lễ mỗi ngày, lúc chín giờ sáng. Câu chuygện xẩy ra cách đây bốn mươi năm, và thiếu phụ đó chính là thân mẫu của vị đứng trên tòa giảng.
Margarita Sinelair sinh tại Edibourg vào năm 1900, trong một gia đình nghèo túng. Cha cô làm nghề quét đường. Ngay từ buổi thiếu thời, cô đã phải làm quen với định luật làm việc khắt khe, vì cô phải giúp mẹ trong việc nội trợ. Để góp vào ngân quỹ gia đình, cô xin làm nghề "đánh bóng" trong một hãng đồ gỗ. Muốn giữ gìn nhân đức tránh ảnh hưởng tồi bạn của một trường hành nghề. Margarita cảm thấy cần đến Bí Tích Thánh Thể: dù bất cứ giá nào, cô nhất định sẽ không chịu hy sinh việc rước lễ hằng ngày. Nhưng giờ làm việc ở xưởng bắt đầu sớm qúa khiến cô không thể kéo dài việc tạ ơn theo như lòng mong ước. Nên cô từ giã thánh đường một lát sau khi tan lễ, trừ ngày Chúa nhật, cô làm bù bằng buổi chuyện vãn lâu giờ với Chúa.
Cô buộc lòng phải hy sinh bữa điểm tâm sáng và thường nhịn đói khi giữ chỗ trong chiếc xe sẽ đưa cô đi làm việc ở đàng cuối phố. Buổi sáng trôi qua trong bầu khí chậm chạp của xưởng thợ; đôi khi, cô dùng thời giờ rảnh rang đến quỳ gối cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa trong Ngôi Thánh đường nằm cạnh xưởng làm việc. Chiều đến, cô ra về với thân mình mệt nhừ và chỉ dùng bữa ăn đầu tiên trong ngày sau khi đã giúp các việc nội trợ như thường lệ.
Theo phong tục Anh quốc, mọi xưởng thợ hằng năm phải cấp cho công nhân mười lăm ngày nghỉ phép. Margarita và Isabella, em cô, về nghỉ tại miền thôn quê. Vừa đến nơi, cô hỏi ngay giờ Thánh lễ. Cô tỏ ý định dự lễ và rước lễ hằng ngày. Cô cũng đề nghị với em bắt chước cô. Isabella trả lời: "Đi dự lễ thì được, còn chuyện rước lễ, em không dám hứa. Em không đáng được rước lễ mỗi ngày" "Chính ma quỉ làm cho em nghĩ thế đấy, em ạ! bởi vì em rước lễ mỗi tuần ba lần, thì tại sao lại không rước lễ mỗi người được?" "Em không đủ sức tự ép mình em như thế!". Margarita mới tiết lộ cho em nghe những hậu quả tuyệt diệu do việc rước lễ đem lại: "Không phải bởi vì chúng ta là thánh, cô nói thêm, mà cần phải rước lễ, nhưng chúng ta rước lễ để được nên thánh. Mỗi khi đã khởi sự rước lễ hằng ngày, chúng ta sẽ không đủ sức để bỏ qua được nữa!".
Tới năm 1925 Margarita Sinelair qua đời. Từ đó, ai nấy đều cầu khẩn cầu cô như một vi thánh. Giáo Hội đang tiến hành công cuộc điều tra tôn phong chân phước cho cô.
CHƯƠNG 23
VIỆC TÔNG ĐỒ
Ban ơn thánh sủng cho những kẻ chưa có, tăng cường nơi những người đã có: đó là sức mạnh của Chúa Kitô. "Ta đến để họ được sống, và được sống dồi dào" (Jn 10:10). Nhờ ơn thánh sủng, ta được làm chi thể sống động của Chúa Kitô. Chúa Kitô với chúng ta, chỉ là một thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô: Chúa Kitô toàn diện. Nếu Chúa Kitô muốn cho thân xác Người nẩy nở, ta cũng phải muốn với Người, phải cộng tác với Người để xúc tiến công cuộc nẩy nở này. Bằng cách nào?
1. Bằng cầu nguyện và hãm mình
Cầu nguyện là phương thế thông thường Chúa đã thiết lập để ta được ơn thánh. Hãm mình cũng không kém phần hiệu nghiệm. Nếu Thầy Chí Thánh đã dùng Máu Người để cứu chúng ta, chúng ta có thể có tham vọng cộng tác vào công cuộc cứu chuộc mà đồng thời muốn hoà trộn với Máu Người những giọt máu hy sinh của chúng ta không? Bởi vì, không đổ máu, không có chuyện tha tội. Thành thử các tông đồ, theo diễn ngữ đầy thi vị và xúc động của Phụng vụ, đã trồng Giáo Hội trong vũng máu đào các ngài đã đổ ra, mà như thế không phải chỉ có ngày các ngài chịu tự vì đạo song là suốt đời sống các ngài.
Giữa bốn bức tường nhà kín. Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux cầu nguyện, chịu đau khổ, và hãm xác thay cho các vị thừa sai. Chỉ mình Chúa biết được ơn ích mà thánh nữ đã thực hiện. Song chúng ta có thể đóan được tầm rộng lớn khi nhớ rằng Giáo Hội đã tuyên dương Người làm đấng bảo hộ tất cả các xứ truyền giáo.
Thánh nữ Mađalêna thành Pazzi, mỗi ngày tiến dâng lên Chúa năm mươi lần giòng máu cứu cuộc để hầu các linh hồn được cứu rồi. Tương truyền thánh nữ Têrêxa nguyện bằng lời cầu nguyện đã làm cho số người trở lại cũng đông đúc như thánh Phanxicô Xaviê bằng các bài giảng thuyết tại Ấn độ.
Năm 1683, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nữ Margarita Maria và xin bà cầu nguyện cho những tội nhân ăn năn trở lại. Chúa phán: "Một linh hồn công chính có thể xin ơn tha thứ cho một nghìn phạm nhân".
Một trong những lần hiện ra tại Lộ Đức, gương mặt Đức Mẹ nhuốm đầy vẻ u buồn. Bernađetta hỏi Người phải làm gì để an ủi Người. Đức Mẹ trả lời: "Phải cầu nguyện cho các tội nhân".
Ngày 13 tháng 5 năm 1917, ba trẻ mục đồng ở Fatima, bên nước Bồ Đào Nha, đang lúc chăm sóc đàn súc vật, trên ngọn đồi Cova da Iria, đã nhìn thấy một trinh nữ thật đẹp, xuất hiện trên ngọn cây sồi xanh tươi, giữa một luồng hào quang chói lọi. Bà nhắn nhủ các em lần hạt Mân Côi, và sau mỗi chục, nhớ đọc thêm câu: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin đưa các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn"
Ai đo lường được ảnh hưởng do các linh hồn thánh thiện nhưng sống một đời mai danh ẩn tích! Bằng lời cầu nguyện và việc hy sinh, họ đóng vai trò mờ tối trong Giáo Hội, nhưng lại chính yếu như rễ cây đối với thân. Cọng rễ tí teo, xám xịt, mờ mờ, nằm dưới đất sâu, bị thiên hạ dẫm chân, khuất mắt mọi người, có ai nghĩ đến nó, có ai lo cho nó? Thiên hạ trầm trồ khen ngợi thân cây cứng cáp; thiên hạ nghỉ ngơi dưới bóng mát do cành lá xum xuê; thiên hạ thưởng thức các quả ngọt lịm. Nhưng cọng rễ tí teo không tiếp xúc với các chất bổ dưỡng dưới lòng đất, thì thân cây chỉ là một khúc gỗ mục, chỉ đáng ném vào lò lửa. Không lá, không hoa, không quả!
Cha Faber đề nghị một phương pháp thực tiễn rất hữu hiệu để chặn đứng các tội trọng. Ngài bảo:"Việc đó chẳng khó gì, nếu mỗi tối chúng ta nguyện xin Đức Mẹ tiến dâng lên Thiên Chúa Máu thánh Con của Người để ngăn cản mọi tội trọng trong đêm tối sắp tới thôi, nếu mỗi sáng, chúng ta lập lại lời dâng hiến đó để ngăn cản chỉ một tội trọng trong ngày đang sống thôi: chắc chắn một lời nguyện như thế không thể nào không đạt đến kết quả mong muốn. Trọn một năm, chúng ta sẽ ngăn cản được hơn 700 tội trọng; sau 20 năm hơn 14 ngàn tội trọng".
Đối với ơn thánh sủng, quả là một việc tông đồ phong phú biết bao!
Nơi nào lời nguyện tỏ ra vô hiệu quả, bạn hãy thêm sự hy sinh vào. Tờ báo "L'Echo de Lourdes" (Tiếng vang Lộ Đức) (1918) có thường thuật câu chuyện sau đây:
Một tên vô đạo đã đồng ý dẫn một thiếu nữ tứ chi bất toại đến Lộ Đức. Hắn nói: "Nếu tôi thấy cô ta được lành bệnh, nếu tôi thấy cô ấy chỗi dậy, tôi sẽ theo đạo Công Giáo. Nhưng chắc sẽ không xẩy ra ngay đâu. Tôi không tin." Cô bé được đưa xuống bể tắm. Cha Bailly kêu lớn: "Hỡi anh chị em, có ai trong anh chị em sẵn sàng hy sinh để cứu một linh hồn đang khước từ cải thiện không? Giữa đám bệnh nhân kia, có người nào đồng ý chịu cảnh bệnh hoạn vì Chúa đến hơi thở cuối cùng để người vô đạo kia được cải tà qui chính không? Trong bầu không khí thinh lặng, bỗng một bệnh nhân trông thật đáng thương đang lết thân với đôi nạng la to: "Con". Đồng thời, một bà mẹ đứng gần cửa sắt, mắt ngấn lệ, nắm lấy đứa con câm điếc của bà và bồng cao lên cho vị linh mục. Từ ba năm qua, bà hằng tiếp tục đưa con bà đến Lộ Đức để khấn van Đức Mẹ xót thương. "Xin cha hãy nhận lấy đứa con của cha, bà thưa, xin cha hãy dâng nó cho Đức Mẹ để người bất hạnh kia được trở lại". Ngay lúc đó, cô bé bất toại bước ra khỏi bể tắm, hoàn toàn lành bệnh. Thấy thế, con người vô đạo vội quỳ gối kêu lên: "Lạy Chúa, xin tha tội cho con! Con xin tin!".
Trong các dịp giảng cấm phòng, cha Petit thích kể chuyện sau đây. Vào hồi năm 1800 tại Liège, cha De Clorivière bắt liên lạc với một vị Đại Úy về hưu đang sống ngoài đạo giáo. Viên sĩ quan lâm bệnh và không có dấu gì cho biết ông qua khỏi được. Vị linh mục thử đề nghị ông xưng tội. Ông từ chối dứt khoát. Lần sau cha lại tìm đến, nhưng người ta cấm không cho vào phòng bệnh nhân. Trong trí cha bỗng nẩy ra một ý tưởng: "Sau mỗi bữa cơm trưa, mình khoái uống một tách cà phê lắm, cha tự nhủ như thế, từ nay mình sẽ hy sinh để cứu ông Đại Úy". Ngay phút đó, chuông điện thoạt reo lên. Người ta mời cha đến đường đó, số nhà đó: Ơ kià! Chính nhà ông ta rồi" Vị linh mục liền chạy đến gặp viên Đại Úy. "Thưa cha, vị sĩ quan nói, cách đây mấy phút một tư tưởng cứ ám ảnh con mãi: là con phải xưng tội. Xin cha vui lòng nghe con". Sự hãm xác đã tạo ra một hiệu quả tức thời. Việc hy sinh đó vô nghĩa, nhưng lại mãnh liệt biết bao, nếu nó được dâng tiến, hiệp với lễ hy sinh Chúa Kitô, Quan tướng chúng ta.
Ngay trong các góc nhỏ nhất trong đời sống bạn, bạn cũng có thể tỏ lòng nhiệt thành hăng hái. Bằng lời cầu nguyện khiêm nhường và thinh lặng. Bằng cách can đảm nhận mọi thánh giá lớn bé do cảnh huống đem lại. Bằng cách trung kiên chu toàn bổn phận. Lời cầu nguyện, việc hy sinh của bạn lúc bấy giờ như luồng ánh sáng mặt trời soi thẳng xuống lòng đất, nhờ đó ơn thánh tìm được một lối thóat. Lúc bấy giờ bạn đóng vai người phân phát, người chuyển trao ơn thánh. Chính ban là người móc nối dòng điện, bất cứ nơi nào bạn có tiếp xúc với linh hồn. Nhưng, bạn ở xa, bạn cũng sẽ gây ảnh hưởng dồi dào, vì bạn chỉ cần lọt vào một mình cặp mắt sáng ngời của Thiên Chúa. dù bạn có cô quạnh, dù bạn có nhỏ bé đến đâu, thì trong nhiệm cục ơn thánh, vẫn không có một tiếng thở dài nào, không có một tiếng nấc nào phải mất đi vô ích. Hạt giống tay bạn gieo vãi cho dù không ai nhìn thấy tay bạn, có thể xuyên qua các khối cẩm thạch rắn chắc nặng nề nhất.
2. Bằng lời nói và gương sáng
Muốn giảng ơn thánh, không cần phải làm linh mục hoặc vị thừa sai truyền giáo. Bạn làm tông đồ của lời nói bằng các buổi nói chuyện trong trắng và xây dựng. Bằng lời nói hay ho đúng chỗ. Bằng việc dạy giáo lý cho trẻ em. Bằng cách an ủi và khích lệ những người nghèo khổ, ưu phiền, bệnh tật, hấp hối. Không bao giờ lỗi bác ái trong khi trò chuyện, tự nó, chính là một việc tông đồ bằng lời nói rất phong phú rồi đấy.
Còn có một việc tông đồ hữu hiệu hơn lời nói. Đó là gương lành. Gương lành lôi cuốn. "Lời nói như gió lung lay; việc làm như tay lôi kéo". Chúng ta có khuynh hướng diễn lại các điều ta thấy kẻ khác làm. Ta quan sát điều đó rõ rệt, nhất là nơi các em bé; nhưng, dưới khía cạnh này, ta còn là em bé suốt đời. Không những bạn hãy làm như các cây cổ thụ, như trụ chỉ điểm được dựng nơi các ngã ba đường, chúng chỉ đường vĩnh viễn yên lặng. Bạn hãy bước tới và lôi cuốn các kẻ khác. "Nói mà không làm cũng giống cái chuông rung thiên hạ đến dự kinh lễ nhưng mình lại chẳng đến dự bao giờ" (Thánh Phanxicô Salêsiô).
Bạn hãy làm gương lành trong gia đình và trong những khi tiếp xúc ngoài xã hội. Nếu trong gia đình, giữa vợ chồng có một sự tranh đua lành thánh để tuân giữ giới răn và chu toàn nghĩa vụ, thì con cái sẽ bị lôi cuốn bắt chước. Ai nói được ảnh hưởng những gia đình đó gây nên trong làng, trong vùng, trong xứ! Cả những người nguội lạnh, các kẻ vô lương, các người ngoại giáo cũng sẽ trở lại. Thánh Gioan Kim Ngôn quả quyết rằng chỉ một người công giáo đạo đức và nhiệt thành cũng đủ để làm cả một gia đình trở lại đạo chính.
Một hôm, Thánh Phanxicô Assisiô gọi một tu sĩ trẻ tuổi đến vào bảo: "Này thầy, ta đi giảng đạo nhé!" Hai cha con ra đi, sau khi rảo chân quanh đường phố, hết vòng, hai cha con lại quay gót trở về tu viện. Thầy tập sinh hỏi: "Thưa cha, thế bao giờ chúng ta mới đi giảng?" "Xong rồi, thầy ạ!" "Lạ nhỉ? Chúng ta rảo qua khắp phố mà có nói lời nào đâu!" "Này, chúng ta đã giảng bằng sự nghiêm trang tề chỉnh của chúng ta đó!" . Không bao giờ hơn lúc này, những ngọn sóng hùng biện đã chảy dào dạt từ diễn đàn các quốc hội và các tòa giảng công giáo. Nhưng, than ôi! các bài diễn văn vang dội đó thường chỉ gây một chút xúc động nhất thời. Chúng giống như một thứ âm nhạc chiến tranh, réo rắt dưới các khung cửa sổ nhà chúng ta, nhịp điệu hùng hồn phấn khởi? Điệu nhạc đó kích thích chúng ta, nhưng không đủ sức làm cho chúng ta xuống đường. Không thiếu diễn giả, nhưng thiếu gương sáng.
3. Bằng nhẫn nhục và hiền lành
Ở Nhật bản, có một lần suốt năm, người ta không nghe thấy tiếng chim cu gáy khi nào. Dân chúng khiếp sợ đến tột độ. Biến cố đã gây hứng cho thi sĩ Shôka viết một loạt ba câu thơ thời danh được truyền tụng mãi mãi. Thi sĩ cho ba nhân vật bàn tán với nhau. Ba ông đó là ba vị Bộ trưởng nước ông. Bộ trưởng thứ nhất: "Nếu nó không gáy, ta hãy giết nó ngay đi!" Bộ trưởng thứ hai: "Nếu nó không gáy, tay hãy bắt nó gáy!" Bộ trưởng thứ ba: "Nếu nó không gáy, tay hãy đợi nó gáy!".
Lòng nhiệt thành phải được đức nhẫn nhục và hiền lành hướng dẫn. Thánh Phanxicô Salêsiô bảo: "Nhiều người hành động giống như kẻ muốn sửa chữa mái nhà, lại đi làm vỡ nhiều ngói hơn là lợp lên!" Nơi khác, ngài nói: "Ngọt mật chết ruồi. Với một tí mật ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn là một trăm thùng dấm!".
Thánh nhân có một người giúp việc, một tay bợm rượu và gạt ra ngoài tai mọi lời quở mắng. Một tối kia, tên đầy tớ lén lút đi ra quán rượu bên cạnh. Nửa đêm, lò mò về nhà, người say mèm, nhưng cổng lại đóng kỹ. Hắn gõ, gõ, gõ mãi. Song không thấy ai ra mở. Hắn nằm ngủ luôn trước cổng. Nghe tiếng động, Đức Giám Mục thức dậy bước ra vớ ngay được hắn nằm co dưới đất...Chẳng kêu réo ai, ngài ẵm tên say rượu vào giường của ngài, rồi sau khi cầu nguyện cho linh hồn hắn, ngài đi ngủ trong một căn phòng khác. Có lẽ tên say rượu thấy giường ngủ ngon hay say mà hắn đánh một giấc đến trưa. Khi thức giấc, thấy mình nằm trong phòng ông chủ, kinh khiếp rụng rời, hắn liền chạy đến quỳ dưới chân thánh Phanxicô để xin ngài thứ tha, và hứa sẽ trở nên người mới. Hắn đã giữ lời. Đức hiền từ thắng lướt mọi chướng ngại.
Muốn lên Giêrusalem, nhưng phải vượt qua miền Samaria, nên Chúa Giêsu phái người đi trước dọn đàng. Hình như các ông bị bạc đãi lắm. Thấy thế, Giacôbê và Gioan liền thưa" Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống thiêu rụi bọn chúng không?" Chúa Giêsu chỉ đáp lại: "Các con không biết các con thuộc tinh thần nào. Con Người đến không phải để hủy diệt linh hồn người ta, mà là để cứu chữa" (Lc 9:54). Một bài học thâm thúy biết bao cho các tính nghiêm khắc, cái tính nóng nẩy của chúng ta!
Thà có một đức ái mù quáng, còn hơn có một tính thận trọng sáng suốt. Phúc âm chỉ thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho mười người phong húi, nhưng hết chín người bạc nghĩa đã quay lưng với Người thì sao!
Cha Volpette (1856-1922), vị sáng lập các công viên cho thợ thuyền ở Saint Étilienne (Pháp), thỉnh thoảng lại bị lừa gạt. Tỉ dụ gia đình nọ đã được rửa tội nhiều lần, nay lại được ngài rửa thêm một lần nữa. Tên du thủ du thực kia lấy súng lục để tống tiền ngài. Nhưng, xá gì chút tiền giả trá sánh với kho tàng pho phú đáng giá bằng hằng trăm ngày vụ rửa tội, trong đó có nhiều người đã trưởng thành, bằng những tờ giao kèo giả hủy diệt, bằng những vụ rắc rối hôn nhân được ổn định và ngàn người xưng tội rước lễ nữa!
Người ta chẳng thấy ngài đứng tại đầu giường một nữ hối nhân vừa xấu hổ vừa đau đớn, để an ủi, để nâng đỡ, để giải tội và để hứa sẽ cho người dưỡng nuôi con cái chị ư? Rồi khi cậu bé cũng qua đời theo một chứng bệnh với mẹ cậu, thiên hạ chẳng thấy ngài bất chấp dư luận đem hoa đến đặt trên mộ đứa con tội lỗi nhưng vẫn còn ngây thơ trong trắng như thiên thần và trên mồ người thiếu phụ đã được Chúa thứ tha tội ư?
Cũng như các tì ố luân lý, các vết như xã hội không làm cha nhụt chí. Một hôm hai tên tù vượt ngục đến gõ cửa nhà cha, họ mới phạm thêm nhiều tội ác, vì cơn đói cào bụng. Ai khác chắc đã nộp họ cho giới hữu quyền. Nhưng vị Linh mục niềm nở đón tiếp họ: "Tôi sẽ đi ăn mày từ nhà này qua nhà khác, nếu cần Cha kêu lên để nuôi sống họ và để biến họ nên người lương thiện." Vì người ta ngạc nhiên, nên ngài lên án xã hội đã ruồng bỏ họ: "Chính cái đó đã khiến họ trở nên người xấu, đã khiến họ thành người hung ác, sát nhân!"
Một anh công nhân vừa mới dùng dao giết chết cô bạn mình. Viên Chánh án hỏi anh:
- Vì lý do gì?...
- Tôi muốn cô ta trả chiếc đồng hồ lại cho tôi.
- Ăn cắp chiếc đồng hồ còn không đáng bị ám sát cơ mà. Anh cho đệ đơn lên Chi Cảnh Sát...
Tên sát nhân do dự, xúc động và cuối cùng vừa khóc nức nở vừa nói: "Đó là chiếc đồng hồ ngày tôi rước lễ vỡ lòng. Cha Volpette, người dạy giáo lý, đã cho tôi. Tôi không lìa chiếc đồng hồ đó". Một phút im lặng, nặng nề bao trùm cử tọa và hàng ghế các phụ thẩm. Rồi "đứa con yêu dấu" của cha Volpette được tha bổng. Ta hãy nghe cha Volpette kết luận: "Vài ngày sau, tôi thấy anh chàng đau khổ đó bước vào phòng tôi, mặt cúi gầm xuống. Vâng, chắc bạn nghĩ đúng rằng trước hết tôi cảm thấy có nhiệm vụ cho anh một bài học luân lý về các sự lôi cuốn tai hại của bè bạn trắc nết...Khi tôi nói xong, anh chàng đôi má đỏ bừng, chìa tay trao cho tôi 40 xu.
- Chi thế cậu?
- Xin cha dâng một thánh lễ cầu nguyện...cho nàng.
- Biết nói sao bây giờ? Tôi ôm anh ta, và chúng tôi cùng khóc với nhau!"
4. Bằng việc làm.
Phần này nhắm cả việc công giáo tiến hành đã được Đức Piô 11 công bố: Công tác thánh đường, các xứ truyền giáo, các ơn thiên triệu, báo chí, công tác xã hội, các của làm phúc do chính của tay hay ta gom góp ngõ hầu nâng đỡ các tổ chức nhằm mục đích mở rộng biên giới nước ơn thánh sủng.
Bạn hãy xung phong gia nhập công giáo tiến hành trong xứ, nhất là việc tông đồ giữa giới thợ thuyền. Không những Chúa Kitô, thủ lãnh của chúng ta, đã xuống thế làm người như chúng ta. Người đã làm một chú thợ bé, một người tầm thường giữa đám người tầm thường, "Người là con bác thợ mộc" như đã có một số người thường gọi như vậy.
Đức Giáo Hoàng Piô 11 còn tuyên bố: "Gương xấu vĩ đại nhất trong thế kẻ 19, là thật sự Giáo hội đã bỏ rơi mất giới thợ thuyền!"
Tại sao khối thợ thuyền quay lưng bỏ Chúa? Thôi chẳng cần mất thì giờ tìm hiểu các nguyên nhân. Ta hãy lo ngay việc tông đồ giữa anh em thợ thuyền. Đức Piô 11 còn nói: "Nhiệm vụ chúng ta là hoạt động để nâng cao giai cấp vô sản".
Đây, câu chuyện một ơn thật lạ lùng mà cũng rất ư tân thời: "Câu chuyện vị tông đồ Phong trào Thanh Lao Công tại Bruxelles. Ngài viết: "Tôi sinh ra trong gia đình thuộc giới thợ thuyền và cứ sự thường mà nói, vào tuổi 12, 13 hoặc 14 đáng lẽ tôi phải xách cà mèn cơm nguội để đi làm việc...Nếu tôi đã trở nên Linh Mục của Chúa Giêsu Kitô, chính là phải nhờ cha tôi mà được. Người là một công nhân nghèo khổ, không biết đọc, cũng chẳng biết viết. Lên 11 tuổi, Người đã phải đi làm, đã phải vất vả lao lực để cùng với mẹ tôi dạy dỗ các con cái người rất hãnh diện. Tôi vẫn con nhớ, một chiều kia, khi tôi được 13, 14 tuổi, trong lúc các anh chị tôi đã yên giấc trên giường, tôi hệt như cậu bé tí hon trong câu chuyện thần thoại, tôi bước xuống bếp thưa truyện với cha tôi, lúc đó đang hút ống điếu, và mẹ tôi đang vá mấy chiếc bí tất: "Thưa cha, con có thể tiếp tục đi học được không? Này con, vừa tuổi con, cha phải đi làm, bây giờ cha đã già, sức lại sút kém..." Để đánh miếng đòn quyết liệt, tôi mạnh bạo thưa: "Con tin rằng Chúa gọi con, con muốn được làm linh mục" Cha tôi, dù là người rất điềm đạm, lúc đó cũng tái mét cả mặt mày và những giọt nước mắt nóng hổi nặng nề từ từ lăn trên gò má nhọc sau một ngày làm việc, và đôi tay mẹ tôi, đôi bàn tay đã mòn hết móng vì bao công việc chồng chất, bắt đầu run lên. Cha tôi bảo "Này bà, chúng ta đã làm việc nhiều. Muốn được vinh dự có một đứa con làm Linh mục, chúng ta hãy làm nhiều hơn nữa!" và các ngài đã làm việc nhiều gấp bội. Nhưng tôi lại gặp một bất thần trong đời tôi, là đến năm triết lý cuối cùng, không đầy 8 ngày trước lễ phát phần thưởng tôi nhận được một điện tín báo tin bệnh tình Cha tôi rất trầm trọng: "Về gấp" Và tôi đã "chạy" về. Tôi thấy cha tôi đang hoi hóp trên giường. Người nhìn tôi mỉm cười rồi nghiêng về phía tôi, người ban cho tôi phép lành cuối cùng trong đời người, người cha đau khổ sức lực tiêu mòn vì công việc, người cha đã bị con mình "giết chết". Sau khi đưa tay vuốt mắt người, tôi thề trên thi thể người, tôi thề sẽ "tự giết" tôi để giới thợ thuyền được cứu rỗi".
Bạn hãy phóng tầm mắt xa hơn biên cương xứ sở bạn, bạn hãy nới rộng lòng nhiệt thành qua bên kia bờ đại dương.
Cha Bouvet viết: "Không gì cảm động bằng" khi các vị thừa sai lên đường. Chúng ta có thể dự nghi lễ đó, tại Paris, trong nguyện đường ở phố Du Bac. Trên vách tường nhà nguyện, chúng ta nhìn thấy Ba vua, những người ngoại giáo đầu tiên đã đến thờ phượng Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta còn nhìn thấy nhiều cảnh tượng tử đạo hãi hùng. Rồi trong nhà, có cả gian phòng chứa đầy các dụng cụ hành hình đem về từ các xứ man rợ. Trước khi quyết định ra đi, các vị Thừa sai đã thường nhìn ngắm chúng. Các ngài đã tự nhủ: "Nếu tôi bước chân đến đó, có lẽ tôi cũng sẽ chịu các khổ hình kinh tởm đó!" Nhưng, các ngài vui lòng chịu chết, nếu cần, vì danh Chúa Giêsu Kitô, và kìa các nhất quyết lên đường. Giờ đây các ngài đang ở trên bậc cấp cao. Vị này sắp đến với đám dân đen Phi Châu, đám dân sống trong những túp lều lụp xụp giữa rừng âm u và gần những giòng sông chảy xiết như thác lũ. Vị kia sẽ sang các Hải Đảo Đại Dương Châu, đất sống của dân man rợ, mình đầy lông lá, đầu tóc bóng mướt và đeo khi giới tẩm độc. Cho toàn đám người ngoại giáo đau khổ tôn thờ bụt thần đó ngài sẽ dạy thế này: Thiên Chúa là Đấng tốt lành và chính Con Người đã chịu chết đền tội thay cho họ. Cha mẹ các ngài đứng đó, khóc sướt mướt, nhưng hãnh diện thấy các con mình sẵn sàng hy sinh mạnh sống vì danh Chúa Giêsu Kitô. Họ nhìn các ngài lần cuối. Rồi kìa, cả cử tọa đứng lên hôn những cái hôn vĩnh biệt. Họ bước gần đến bàn thờ, qùy gối xuống trước mặt các vị thừa sai, và mọi người đặc chiếc hôn cuối cùng trên bàn chân các ngài, những bàn chân sẽ đi đến các miền xa lạ, để truyền bá Phúc Âm. Biết bao là nước mắt! Biết bao là tình thương! Thôi, hết rồi. Cửa nguyện đường mở toang. Xe đã trực sẵn ngoài sân, các vị truyền giáo bước lên. Đoàn xe chở những người chỉ nghĩ đến Chúa Giêsu Kitô và ra đi chịu chết cho Người. Trong khi nơi các đường phố Paris, đầy ứ bọn người chỉ nghĩ đến tội lỗi và vui thỏa cá nhân. Ở trần gian này, có gì cao cả hơn, đẹp đẽ hơn chăng?
Bạn được chọn ra đi phương xa ư? Bạn hãy tham gia phong trào truyền giáo, được Đức Piô 11 tuyên lập và cổ võ. Bạn hãy hưởng ứng các Hội Giáo Hoàng nhằm giúp các Xứ Truyền Giáo: Hội truyền bác Đức Tin, Hội Chúa Hài Đồng. Hội Thánh Phêrô Tông đồ. Chính nghĩa quả có một sức hấp dẫn phi thường. Thế giới ngoại giáo gồm hơn hai tỷ người. Hơn hai tỷ người, nghĩa là 4/5 thế giới rồi. Nghĩa là, nếu ngày đêm họ diễn hành cứ 10 người mỗi giây, chúng ta phải mất 4 hoặc 5 năm mới hết nhìn thấy họ bước qua. Hằng ngày có hơn 100.000 người qua đời, mà không được biết Chúa Cứu Thế và giá ơn Thánh Sủng. Đức Thánh Cha Piô 12 viết: "Bao lâu thánh ý Thiên Chúa còn giữ Ta ở đời này, bấy lâu công việc truyền giáo còn làm Ta băn khoăn lo lắng không ngừng. Thường khi nghĩ đến số người ngoại giáo đã lên tới 1 tỷ, trí khôn Ta không thể nào nghỉ yên" (Rer. Eccl).
Mùa màng bát ngát. Công việc cấp bách, bạn hãy sung phong vào đoàn thợ hoạt động cho công cuộc chính yếu này đi.
CHƯƠNG 24
VIÊN NGỌC QUÝ
1. Vị thương gia thần linh.
Một Quốc Vương Bỉ, Vua Charles le Téméraire, đã đánh rơi một viên ngọc vô cùng quý giá trên bãi chiến trường Grandson vào năm 1476. Một quân nhân Thụy sĩ nhặt được, ngỡ là hòn bi nên không muốn giữ lại. Anh đem bán lấy một đồng vàng. Ít lâu sau, hột xoàn đó được bán lại với gía 20.000 kim bảng.
Ơn thánh sủng giống như hạt ngọc qúy. Phúc Âm kể: "Một thương gia rảo tìm ngọc qúy. Gặp được một viên ngọc trai rất qúy giá, ông liền đi bán sạch mọi của cải để mua cho được hạt ngọc" (Mt 13:45-46).
Chính Chúa Kitô chẳng phải là một thương gia hảo hạng ư? Bạn chớ bất bình về lời so sánh này. Bởi vì chính Người đã mua hạt ngọc ơn thánh sủng bằng giá tất cả mọi đều người có. Người bán ngai vàng, bán thiên cung để đến ngự giữa chúng ta. Người bán sạch mọi của cải, chồn cáo co hang, chim chóc có tổ, Con Người không có viên đá dựa đầu. Người bán tự do của Người, chịu cột trói như phường gian ác. Người bán cha mẹ bạn hữu: các tông đồ Người tẩu thóat, một người trong họ chối bỏ Người, một người khác trao nộp Người cho quân địch để nhận lấy 30 đồng, chính Chúa Cha trên trời cũng có vẻ từ bỏ Người trên Thánh Giá. Người bán cả danh dự, cả tiếng thơm, bị đập đánh, bị khạc nhổ vào mặt, bị quất roi, bị đội triều thiên bện gai, bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, bị la ó phải bước xuống khỏi thập giá, phải tự cứu chữa mình. Người bán thân xác Người: người ta có thể đếm xương Người "từ đỉnh đầu tới bàn chân, chẳng nơi nào lành" (Is 1:6). Người bán linh hồn: Linh hồn Người chịu não nề đau đớn, đến nỗi một Thiên Thần xót thương nỗi cơ cực đã đến kích lệ an ủi Người. Người bán cả thần tính để mặc lấy hình thức loài người và nô lệ. Tắt một lời, Người bán mọi điều có trong tay, để cho chúng ta được ơn thánh sủng.
Nếu có một Thiên Thần chịu khó hứng giùm bạn trong một chén vàng, các giọt nước mắt Chúa Giêsu khóc trên nôi, các giọt mồ hôi đổ ra suốt quãng đời ẩn dật và công khai, các giọt lệ tuôn trào trên Kinh Thành Giêrusalem và trên mộ Lazarô bạn Người, tất cả các giọt máu tung tóe ra trong vường cây Dầu, tại dinh Philatô, trên đường khổ nạn trên đồi Canvê...thì kho tàng bạn sẽ to lớn đến mức nào! Bạn tạ ơn thánh sủng là tất cả những thứ đó. Đó là một hạt ngọc trai đáng giá đời sống, cuộc thương khó và tử nạn của CHÚA NGƯỜI.
Gía máu ơn thánh sủng ư? Bạn hãy hỏi Chúa Giêsu Kitô. Người sẽ chỉ cho bạn hang đá Belem, thôn lành Nazarét, đỉnh đồi Canvê. Là Thiên Chúa mà xuống thế làm người! Là Đấng tạo thành trời đất mà làm việc như một bác thợ mộc nghèo khổ! Tử nạn trên một khổ gía ô nhục, bị mọi người bỏ rơi. Các tư tưởng đó, các bạn đã nghe quen, có lẽ còn quen lắm là đàng khác. Do đó, chúng không còn sức đánh động bạn nữa.
Giá mua ơn thánh sủng ư? Bạn hãy hỏi nơi thằng quỉ Satan đang trút hết cơn phẫn nộ và dốc toàn lực mưu chước để cướp lấy ơn thánh đó nơi bạn.
Giá mua ơn thánh sủng ư? Bạn hãy hỏi nơi các "thương gia" dũng cảm kia, nơi các vị truyền giáo đang rảo chân khắp nẻo đường thế giới, để mở mang bờ cõi nước ơn thánh, dù phải vì đó mà đổ hết giọt máu đào.
Giá mua ơn thánh sủng ư? Khi bạn nghĩ đến hạnh phúc vô biên Thiên Đàng, các nỗi khổ cực vô tận và vĩnh viễn trong hỏa ngục, nếu bạn có chút ít đức tin, bạn có thể để mất hạt ngọc trai vô giá đó không?
Thánh Tôma bảo: "Tài sản ơn thánh trong một linh hồn thôi cũng quý giá hơn tài sản thiên thần của vũ trụ. Công chính hóa người vô đạo bằng ơn thánh sủng thật là công cuộc vĩ đại hơn việc tạo dựng trời đất".
2. Hạt ngọc duy nhất.
Người thương gia trong dụ ngôn đi tìm nhiều hạt ngọc khác nhau. Gặp được một viên, ông dừng ngay cuộc tìm kiếm, vì hạt ngọc này qúy giá hơn mọi hạt khác và thay thế cho tất cả. Hạt ngọc ơn thánh sủng cũng thế. Nó duy nhất. Chỉ có một. Nó hàm chứa mọi tài sản mà trí óc có thể tưởng tượng và quả tim có thể ao ước.
Bạn ước muốn gì nếu không phải là được sống, được đẹp, được giầu, được vinh dự, được vui sướng? Mà ngần ấy thứ đều hàm chứa trong ơn thánh sủng.
1) Ơn thánh là sự sống. Sự sống tuyệt hảo, sự sống thượng đẳng, siêu nhiên, thần linh, sự sống của chính Thiên Chúa. Tương phản biết bao với sự sống hoàn toàn nhân loại. Cuộc sống tự nhiên có thể bị yếu ớt, phải gánh lấy sự tàn ác, các đam mê qúa độ, bệnh tật, tan rã, thần chết. Một sự sống như thế có thực là một sự sống chăng?
2) Ơn thánh là vẻ đẹp viên toàn. Không phải vẻ đẹp bề ngoài, thuộc thể xác, chóng phai tàn, mà là vẻ đẹp bên trong, thiêng liêng, vĩnh viễn, một tia phản chiếu của vẻ đẹp Thiên Chúa. Ơn thánh chính là Thiên Chúa ở trong ta và vui thích ở trong linh hồn ta.
3) Ơn thánh là sự giầu sang của chúng ta. Phải hiểu sự giầu sang này như thế nào? Một ơn thánh cũng vượt trên mọi kho tàng thuộc trật tự tự nhiên, thuộc thế giới khoáng vật, trên tất cả mọi thắng lợi của cây cối, thú vật, loài người, chư thần thánh. Dẫu được hoàn hảo và quyền lực do bản tính đem lại, các thần linh trên trời cũng không thể quan niệm nổi tầm bao quát của sự giầu sang này: Bởi vì ơn thánh sủng là một tài sản thuộc mọi trật tự cao hơn. Hơn nữa, ơn thánh còn có cả một đoàn tùy tùng chói lọi là các nhân đức siêu nhiên có thể tăng cường thêm mãi, nên nhờ thực hiện các việc lành, có thể cung cấp những kho tàng công nghiệp vô tận. Giá trị của ơn Thánh ư? Chính là Thiên Đàng đấy. Mức độ ơn thánh bạn đạt tới ở trần gian sẽ ghi dấu rất chính xác mức độ vinh hiển bạn sẽ thụ hưởng ngày mai trên nước Trời. Ơn thánh chứa đựng Thiên Đàng như hạt dẻ chứa đựng cả cây sồi, như nụ hoa chứa đựng cả đóa hoa.
4) Ơn thánh sủng là vinh dự và là vinh hiển của chúng ta. Ơn thánh sủng chẳng phải là nguồn gốc mọi danh giá đấy ư? Nhờ có nó ta được sống đời sống thần linh. Nhờ có nó ta được nên thánh đích thực, không những trong tinh thần và ý chí, trong mọi nguyện vọng và hành vi, mà còn đến tận đáy bản tính ta, nhờ trở nên giống Chúa và được chính Chúa tự thông ban cho. Nhờ có nó, ta được làm con Chúa, làm anh em, bạn hữu và chi thể sống động của Chúa Kitô, con cái đích thực của Mẹ Maria, anh em với các hữu thể cao sang nhất trên Thiên Đàng, ở luyện ngục và dưới trần gian, lại còn được biến thành đền thờ Chúa Thánh Linh, đền Thờ Chúa Ba Ngôi, được quyền thừa hưởng Thiên Đàng, làm hoàng thân tại Triều Đình Thiên Quốc. Có thể nói, ơn thánh sủng là một sự nới rộng trong chúng ta sự xuất sinh đời đời của Con Thiên Chúa. Nhờ có nó, Chúa Cha trên trời ban cho chúng ta tình yêu mà ngài yêu mến Con Một Ngài. Chúng ta bà con với Thiên Chúa. Ôi vinh dự, và danh giá biết bao. Chỉ khi lên Thiên Đàng mới hiểu được.
"Ôi! Ai nói được lòng trọng kính chúng ta phải có đối với linh hồn đang sống trong ơn thánh!
Hỡi linh hồn lành thánh, nếu bạn tự biết bạn, bạn sẽ tự qúy bạn đến mức nào!
Hỡi linh hồn lành thánh, được Thiên Chúa yêu dấu!
Hỡi linh hồn lành thánh, được Thiên Chúa ngự trị!
Hỡi linh hồn lành thánh, được các thần thánh yêu quý và kính trọng!
Hỡi linh hồn lành thánh, được làm Thiên đàng hoan lạc cho Đấng Tạo Hóa.
Hỡi linh hồn lành thánh, là chốn nghỉ ngơi tuyệt vời của Thiên Chúa!
Hỡi linh hồn lành thánh, nhà tạm của Thiên Chúa Ba Ngôi, xinh đẹp hơn mặt trời!
Hỡi linh hồn lành thánh, hòm bia vàng, không phải chứa đựng Cựu Ước mà là Tân Ước!
Hỡi linh hồn lành thánh, ngai tòa chí cao của Thiên Chúa!
Hỡi linh hồn lành thánh, tầng cao hơn hết mọi tầng trời!
Hỡi linh hồn lành thánh, mênh mông hơn bầu trời, chứa đựng không phải muôn ngàn tinh tú, song là chính Ba Ngôi Thiên Chúa!
Hỡi linh hồn lành thánh, triều đình cao cả Thiên Chúa hằng sống!
Hỡi linh hồn lành thánh, bàn thờ chí thánh của Thiên Chúa uy nghi!
Hỡi linh hồn lành thánh, thiên đàng và dinh thự yêu quí của Thiên Chúa!
Hỡi linh hồn lành thánh, ái nữ của Thiên Chúa Cha!
Hỡi linh hồn lành thánh, em gái của Thiên Chúa Ngôi con!
Hỡi linh hồn lành thánh, bạn trăm năm của Thiên Chúa Thánh Linh!
Hỡi linh hồn lành thánh, đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh!
Hỡi linh hồn lành thánh, bao la hơn vũ trụ!
Hỡi linh hồn lành thánh, kho tàng các ơn huệ của Chúa Thánh Linh!
Hỡi linh hồn lành thánh, đền đài Vua cả oai hùng!
Hỡi linh hồn lành thánh, bạn thiết nghĩa của Ba Ngôi Thiên Chúa!...
Nếu bạn tự hiểu biết bạn, bạn sẽ tự quý trọng bạn đến mức nào.!!!
(Cha Nieremberg)
Một hôm, Thánh nữ Catarina thành Sienna suy ngắm về tình yêu Chúa Giêsu đối với linh hồn chúng ta: Thánh nữ không hiểu làm sao Chúa Cứu Thế lại có thể yêu chúng ta đến mức chịu bao đau đớn vì những tạo vật khốn nạn như thế. Chúa Giêsu liền hiện ra, vừa chỉ cho thánh nữ xem vẻ đẹp xinh và vinh hiển của một linh hồn sống trong ơn thánh, vừa phán: "Con hãy nhìn xem có đáng sống, đáng chịu đau khổ và đáng chịu chết cho một tạo vật xinh đẹp như thế không?
5) Ơn thánh là nguồn vui chúng ta. Khi ban phép Thánh Tẩy, vị linh mục thừa tác viên đã bảo về bạn: "Chớ gì em bé này được vui sướng phụng sự Chúa trong Giáo hội Ngài". Ơn thánh đó là lý do sâu xa tao nên nguồn vui. Nhờ đó, bạn đã có ngay tại thế chính điều cấu thành hạnh phúc chính yếu trên thiên đàng, tức là Thiên Chúa: Thiên Chúa, tự hiến thân cho bạn bằng sự hiện diện chọn lọc, một sự hiện diện tình yêu, mà vinh hiển mai ngày chỉ là sự nẩy nở hoàn toàn thôi. Linh hồn bạn sống trong ơn thánh đã là một thiên đàng, bởi vì thiên đàng chính là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa lại ở trong linh hồn bạn. Với niềm xác tín này, một niềm xác tín không những lướt quá trí khôn bạn, mà còn được đâm rễ sâu thẳm trong bạn, làm sao từ nay bạn không thể sống vui tươi được? Bạn đã suy nghĩ đầy đủ về chân lý đức tin đó chưa? Dù gặp khổ đau, dù bị bỏ rơi, bắt bớ, dù già nua, chết chóc, chân lý đó vẫn có khả năng an ủi bạn. Giả thiết rằng bạn thiếu thốn hết mọi hạnh phúc trần gian, thì sự thiệt thòi chỉ vô nghĩa: vì bạn vẫn còn lại cái thiết yếu cơ mà.
"Tôi tràn ngập vui mừng giữa mọi nỗi gian truân tôi chịu" Thánh Phaolô đã viết thế khi tay chân bị gông cùm xiềng xích (2 Co 7:4). Về một trong những lần khạc ra máu cuối cùng, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng thuật lại rằng: "Tôi cảm thấy một làn sóng đang sùng sục sôi lên đến miệng tôi, tôi tưởng như sắp chết và tim tôi vỡ đôi vì sung sướng.
Ôi Mẹ ơi! Hy vọng biết bao!" Thánh Phanxicô Assisiô bảo: "Sự buồn phiền thích hợp cho ma quỉ và bè lũ chúng, còn chúng ta, phải là niềm vui trong Chúa".
"Ôi nếu các con biết được niềm vui của ta", thánh Benoit Labre kêu lên như vậy, khi nghe các em bé xót thương cho bộ mặt hốc hác và áo quần tả tởi của người. Ngày nay, người ta còn trình bày cái ống tiêu và cái trống mà Thánh Têrêxa Cả ngày xưa sử dụng trong tu viện người tại San Gasé, để diễn tả niềm vui tràn ngập linh hồn người. Cha Guéranger nhắn nhủ các nữ tu của người phải là những "Ca khúc Alleluia, từ đầu đến chân". Thánh Gioan Vianney bảo: "Mùa xuân luôn luôn ở trong con tim kẻ yêu mến Chúa".
Một hôm đang đi trên đường, công tước De Stolberg gặp một cụ già đang khóc. Công tước lại gần và hỏi han lý do khiến cụ sầu muộn. Cụ già đau khổ trỏ đống gạch vụn của nhà cụ, vừa bị một trận hỏa hoạn tàn phá. Cụ rên rỉ: "Tôi chỉ có một mình. Ngày xưa tôi cũng có gia đình. Nhưng mọi người đều chết cả!" "Ôi cụ già bất hạnh biết bao!" Vị công tước vừa nói vừa biếu cụ một số tiền lớn. Thình lình, tìm thấy lại nghị lực của niềm tin, cụ đứng phắt dậy và nhìn thẳng vào mặt nhà quí phái, cụ khoan thai bảo: "Bất hạnh ư? Không. Tôi không bất hạnh đâu! Mẹ tôi ngay xưa dạy tôi thế này, trên đời chỉ có một cái bất hạnh thực sự: đó là tội trọng. Nhờ ơn Chúa, tôi chưa bao giờ phạm tội trọng. Tôi chưa bao giờ bất hạnh cả!" Niềm vui phát sinh từ lương tâm lành thánh. Ngoại trừ tội lỗi, không có bất hạnh thực sự Ôi! Lời nói cao siêu biết bao! Đã bao nhiêu người chơi bời, tiệc tùng, thỏa mãn dục vọng mà vẫn không bao giờ tìm được hạnh phúc thật. Anatole France viết: "Nếu bạn có thể đọc thấy linh hồn tôi, bạn sẽ khủng khiếp. Trong vũ trụ không có tạo vật nào khốn khổ bằng tôi. Người ta ngỡ tôi sung sướng hạnh phúc. Nhưng tôi không hề được sung sướng hạnh phúc dù lấy một ngày, một giờ". Niềm vui chỉ phát sinh từ trạng thái ơn thánh mà thôi.
Ngày 22 tháng 9 năm 1922. Năm mươi hai người Công giáo đã tử vì đạo tại Nhật Bản. Trong đám anh hùng đó, có một bà mẹ với đứa con mới lên bốn tên là Inhaxiô. Một năm trước đó, Cha Spinola đã rửa tội cho em. Lúc đó chính Cha cũng đang chờ chết. Ngài muốn gửi đến đám người bị án tử hình những lời nhắn nhủ sau cùng. Thấy bà mẹ mà không thấy đứa con, cha hỏi bà xem bé Inhaxiô đâu. Tức khắc, bà mẹ bồng bé lên, trỏ cho vị truyền giáo thấy: "Thưa cha, cháu đây - bà nói: nó sắp chết với con và nó hạnh phúc lắm. Rồi bà nói với Inhaxiô: "Con ơi! Hãy nhìn vị linh mục biến con thành con Thiên Chúa. Con hãy xin Người ban phép lành cho con". Bé Inhaxiô mặc đồ mới tinh, đôi tay chắp lại và xin vị linh mục vui lòng ban phép lành cho. Mọi người có mặt thấy thế òa lên khóc. Nhiều chiếc đầu bị chém lăn lóc dưới chân bé, kể cả chiếc đầu của hiền mẫu. Inhaxiô vẫn không tỏ vẻ gì khiếp đảm. Bé quỳ xuống giữa vũng máu và đưa chiếc đầu bé bỏng cho tên đao phủ.
Đó, ngay tại xứ lương dân, thiên hạ kể cả những em bé quý trọng ơn thánh như vậy đó.
Còn bạn, bạn có quý trọng ơn thánh không?
3. Bạn có phải là tay sành điệu không?
Tại sao ơn thánh lại được so sánh với một viên ngọc trai? Để nhắc nhở ta nhớ rằng mình dễ lầm lắm đấy. Nếu không tinh, ta có thể lầm về giá trị các hạt ngọc. Có những tinh thể, coi giống như hạt kim cương, cái nhắc ta nhớ đến viên ngọc lam, cái bắt chước hạt ngọc bích. Cũng thế, có nhiều thứ giả, những thứ tốt mã rã đám.
Ơn thánh sủng cũng vậy. Cần phải học biết để nhận ra được.
Gương chàng binh sĩ trên bãi chiến trường Grandson còn đó. Có biết bao công giáo đã ném một viên ngọc quí giá! Họ mất ơn thánh mà không chút băn khoăn lo lắng, không chút bận tâm ân hận! Tại sao? Vì họ không biết giá trị của ơn thánh. Nếu được giáo huấn kỹ lưỡng hơn, người công giáo chắc sẽ tránh xa tội trọng, không phải vì sợ hỏa ngục, nhưng nhất là để khỏi đánh mất kho tàng quí giá nhất. Được giáo huấn kỹ lưỡng hơn. Chắc họ sẽ cố gắng tăng thêm gia tài thiêng liêng bằng cầu nguyện, bằng năng chịu các bí tính, bằng các việc lành. Chắc sẽ đưa đến một sự phục hồi đời sống công giái, một mùa trổ sinh các vị Thánh.
Đức Hồng Y Mercier đã nhắn nhủ các Linh mục trong địa phận Ngài: "Tôi tha thiết khẩn nài anh em, tự bảo với chính mình, bảo cho con chiên bổn đạo biết rằng: chỉ có kho tàng ơn thánh là hệ trọng...Nhớ rao giảng điều đó một cách tha thiết, một cách đầy tình thương, cho các trẻ học giáo lý".
Tạo sao bao người đạo đức vẫn tiếp tục đứng mãi một chỗ? Họ vẫn đọc những tác phẩm tu đức, thần bí cơ mà. Có bao giờ họ đã đào sâu tín lý về ơn thánh sủng chưa? Chính tín lý đó, nằm ngay căn bản mọi nền đạo đức, có khả năng nhất để soi sáng trí khôn, xúc động tâm hồn, thúc đẩy ý chí. Riêng mình nó, tín lý đó đủ sức nuôi dưỡng linh hồn cách dồi dào, và có thể thánh hóa linh hồn đó cách nhanh chóng.
Nhiều chị em nữ tu đến hỏi Thánh Têrêxa để biết cần phải đọc sách gì trước nhất. Thánh nữ trao cho họ quyển giáo lý trẻ em và bảo: "Đây là quyển sách các con của mẹ phải đọc đêm ngày". Các chị em nữ tu đó phải chăng là những người tầm thường, ít nhân đức và ít hiểu biết hơn các người đạo thời này? Chắc chắn là không, vì lòng đạo đức của họ trên những nền tảng vững chãi hơn.
Chẳng phải hằng ngày ta hằng nhìn thấy trước mắt hằng ngàn hình ảnh của một thứ Kitô giáo bị bóp méo ư? Đánh dấu các giai đoạn chính trong đời sống: Thánh tẩy, rước lễ trọng thể, hôn phối bằng các lễ nghi tại nhà thờ; mang trên mình một xâu tràng hạt, một mẫu ảnh, một tấm áo Đức Bà; kiêng thịt ngày thứ sáu; ngày Chúa nhật dự lễ thì thường chia trí; lâu lâu xưng tội một kỳ; rước lễ vào những dịp lễ trọng trong năm; hát hết hơi kinh Tin Kính vào ngày đại hội: đối với nhiều người, tất cả đời sống Kitô giáo là đấy!
Lạ gì nếu đạo Chúa Kitô xuất hiện như một số những điều phải giữ! Ta giữ vì phải giữ, vì tập quán, vì phải làm như mọi người khác. Đối với nhiều người, tôn giáo chỉ là một chuỗi những công thức đã học thuộc lòng từ xa xưa. Họ lập đi lập lại, bất kể sai đúng, không cần thiết là một sự nô lệ, một gánh nặng không sức nào vác nổi. Nhưng khi bị thử thách một chút, họ sẽ trút bỏ ngay.
Vậy Chúa Giêsu có thể lừa gạt chúng ta khi Người tuyên bố: "Ta đến để họ được sống dư đầy" (Jn 10:10) sao? Đạo Chúa Kitô là sự sống, Đạo hạnh là sự sống. Sự sống tiên vàn là sự sống. Chúng ta có nghĩ đến chân lý đó không?
Có nhiều quan niệm lầm lạc về vấn đề đạo hạnh. Nhiều người công giáo, nhất là phía nữ giới, đặt sai chỗ, sai nơi, sai việc, phụ thuộc lố bịch, dị đoan. Vì thích thứ mới lạ cầu kỳ, họ lao mình vào đời sống khắc khổ và thần bí, mà lại không thuộc và khinh rẻ quyển giáo lý. Chúng ta hãy chọn những tác phẩm đơn sơ, nhưng căn bản vững chắc. Chúng ta đừng quên rằng tình bạn ơn thánh là điều phải chuyên chăm trước nhất.
Các tông đồ xưa đề cập đến ơn thánh như một chân lý đã được tất cả mọi tín hữu biết và nhìn nhận. Tuy nhiên, các ngài giảng cho lớp người ít học thức, những người lương dân mới trở lại chính giáo. Các anh em tân tòng thời đó cùng không thông thái cùng chẳng đạo hạnh hơn chúng ta ngày nay, song lại hiểu biết vấn đề ơn thánh hơn chúng ta. Chúng ta tìm về tập quán thời các tông đồ đó. Chúng ta hãy học hỏi, hãy nghiên cứu thâm sâu, tín lý ơn thánh sủng.
Nguyện chúc ơn thánh sủng hằng luôn tràn đầy linh hồn bạn!
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối", "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức
Mỗi ngày hãy đọc ít nhất: 1 Kinh Lạy Cha + 3 Kinh Kính Mừng + 1 Kinh Sáng Danh.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng con được vững lòng tin Chúa hơn.