Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC. Hiển thị tất cả bài đăng

Phép màu suối thánh Lourdes

Phép màu suối thánh Lourdes

(24h) - “Đó là nguồn nước suối màu nhiệm đã để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau trên thế giới".

Ivơ Bác Đô - một nhà bác học có tên tuổi, một bậc thầy về tâm thần học đã nghiên cứu, điều tra và viết ra cuốn "Phép màu nhiệm của suối thánh Lourdes"

Tháng 3 năm 1858, một cô gái Pháp tên Margrette bỗng thấy Đức Mẹ nhập vào mình và phán truyền: "Ta ban cho các con nguồn nước suối màu nhiệm này để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau trên thế giới".

Phép màu suối thánh Lourdes, Bí ẩn lịch sử, Phi thường - kỳ quặc,  Phép màu, suối thánh, Lourdes

Nước suối có thể chữa khỏi những căn bệnh hiểm nghèo cho người dân

Margrette như được một sự chỉ dẫn bí ấn, một mình đi vào hang sâu trong núi. Cô lật tảng đá phủ rêu thì thấy có một nguồn nước bốc khói tuôn dào đạt. Người đầu tiên chứng kiến sự màu nhiệm của nguồn nước là cha xứ thuộc địa phân Lourdes. Được nghe kể lại lời phán truyền của Đức Mẹ, cha xứ coi suối là một thứ nước linh thiêng. Ông lấy nước đó nhỏ và mắt anh mù Sactơlê. Lạ thay, ngay lúc đó đôi mắt anh sáng trở lại và đọc được dòng chữ viết từ mảnh giấy của cha xứ đang cầm ở tay.

Tin đó lập tức lan đi rất nhanh, một cô gái Charlotte bị liệt từ lâu không đứng lên được liền được đưa đến suối Lourdes, cô thấy khỏe ra và đi lại bình thường sau khi uống nước suối Lourdes. Một cụ già bị hen mãn tính, mới uống có hai lần thuốc nước suối đã dứt hẳn cơn hen.

Phép màu suối thánh Lourdes, Bí ẩn lịch sử, Phi thường - kỳ quặc,  Phép màu, suối thánh, Lourdes

Bí ẩn về dòng suối thánh này vẫn chưa được khám phá

Ngoài những người có bệnh tật tìm đến còn có rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, bác học cũng tới. Vùng Lourdes xa xôi vắng vẻ trước đây nay bỗng trở nên sầm uất, náo nhiệt vì người đến cầu xin khỏi bệnh, lấy tin tức, xác định khảo cứu...

Theo Ivơ Bác Đô và các báo chí cho biết, hàng năm có từ 4-8 vạn người từ các miền của nước Pháp đổ đến Lourdes. Số người nước ngoài tới cũng không ít. Nhà bác học đã chứng kiến rất nhiều người được chữa khỏi bệnh. Bệnh trạng cả những người đến đây rất đa dạng: có người bệnh tim, người bệnh phổi, bệnh dạ dày, kinh niên,... đặc biệt có cả những người mù lòa, bại liệt, người bị bệnh "ma làm". Các phóng viên, nhà nghiên cứu đã mục kích, chụp ảnh, quy phim về các cảnh tượng đó và cho đến nay, sự bí ẩn này vẫn chưa được lý giải.




+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Lộ Đức: Một phép lạ vĩ đại đã xảy ra

Lộ Đức: Một phép lạ vĩ đại đã xảy ra

“Truyện Kể Về Mẹ” kể về những mẫu truyện ơn lạ của Đức Mẹ và cũng là món ăn tinh thần rất hữu ích cho tất cả mọi người tín hữu. Hãy luôn đến với Mẹ để tìm nguồn an ủi và bình yên. Trong tờ báo «Hang Đá Lộ Đức» số ra ngày 27.11.1960 đã đăng tải một phép lạ vĩ đại thuộc lãnh vực tinh thần đã xảy ra tại một thành phố nước Pháp.

Số là cách đó mấy năm ở tại một nhà thương có một bé trai mới 12 tuổi bị một thứ bệnh nguy hiểm, người mọc đầy ung nhọt, lở láy đau đớn vô cùng, khiến em hầu như không cử động được nữa. Tuy thế, em luôn vui vẻ và cám ơn tất cả những sự giúp đỡ của mọi người đã dành cho em. Trong khi biết mình không còn hy vọng có thể sống được nữa, em vẫn không buồn bã thất vọng, em chỉ ước ao một điều duy nhất là được đến kính viếng hang đá Đức Mẹ Lộ Đức mà em đã được nghe nói đến từ lâu rồi.

Tuy nhiên, cha em là một đảng viên cộng sản quá khích khét tiếng và khiến cả mẹ em cũng phải theo ông luôn. Vì thế cha em đã hoàn toàn phản đối việc làm «mê tín» đó, ông cương quyết không cho phép em đi kính viếng Đức Mẹ Lộ Đức. Nhưng rồi ông nhận thấy việc ông từ chối không cho đứa con trai bệnh hoạn của mình đi đến hang đá Lộ Đức đã gây nên bao buồn sầu và đau khổ cho cả gia đình, nên cuối cùng ông đã đành đồng ý, nhưng ông cấm ngặt mọi người khi trở về không được kể lại cho ông nghe những chuyện lăng nhăng lít nhít ở đó.

Dù không muốn, nhưng bà mẹ đã phải đi theo cậu bé, vì em luôn cần được săn sóc. Khi đến Lộ Đức hai mẹ con đến một dưỡng đường ghi tên và được một nữ y tá đón tiếp hết sức thân thiện. Vào ngày thứ ba, bà mẹ cậu bé nói với nữ y tá: «Đã 25 năm nay tôi chưa hề đi xưng tội. Cô có tin là con trai tôi sẽ lành bệnh, nếu tôi chịu các phép Bi tích?» Viên nữ y tá trả lời bà là không ai có thể quả quyết trước được như vậy. Chỉ một điều chắc chắn là Thiên Chúa sẽ bù đắp cho thiện ý của chúng ta một cách dồi dào những gì hữu ích cho chúng ta, nghĩa là Thiên Chúa không nhất thiết ban cho chúng ta những gì chúng ta thấy tốt và khẩn khoản nài xin Người, nhưng là những gì Người thấy tốt cho chúng ta.

Chính trong ngày hôm đó, bà mẹ đứa bé đã đi xưng tội và rước lễ sốt sắng, và bà đã cảm thấy vô cùng sung sướng hạnh phúc trong tâm hồn. Nhưng bà xin mọi người đừng nói cho con trai bà biết điều đó, vì bác sĩ đã cảnh cáo là chỉ một cảm xúc mạnh, kể cả cảm xúc vui mừng, cũng có thể làm cho đứa con bà chết ngay. Cô nữ y tá hứa sẽ giữ im lặng.

Nhưng trước khi từ giã Lộ Đức để trở về nhà, cô y tá đã hỏi cậu bé: «Em có hài lòng về chuyến kính viếng Đức Mẹ Lộ Đức không?» Cậu bé liền trả lời: «Con đã thưa với Đức Mẹ là con hài lòng và thích cho mẹ con được ơn ăn năn trở lại còn hơn là chính con được lành bệnh.» Và em đã khóc.

Bấy giờ cô y tá hỏi bác sĩ là cô có được phép an ủi cậu bé bằng cách nói cho cậu hay là mẹ cậu đã ăn năn trở lại, và viên bác sĩ đồng ý. Cô y tá liền hỏi cậu bé: «Em có thể giữ im lặng không được nói cho ai về một phép lạ vĩ đại, kể cả mẹ em?» Sau một vài giây ngập ngừng, cậu bé trả lời: «Vâng, con xin hứa.» Nghe thế, cô y tá liền nói với đứa bé: «Em xem, ở Lộ Đức, mẹ em đã đi xưng tội và rước lễ rồi đó!»

Nhưng bỗng chốc cô y tá đã vô cùng luống cuống sợ hãi vì từ cậu bé chiếu toả ra một niềm vui sướng kỳ diệu, có thể nguy hiểm cho sức khoẽ cậu. Nhưng niềm vui sướng của cậu bé cũng khiến người ta phải liên tưởng tới Thiên Đàng. Sau đó, cậu bé đã nói: «Bây giờ con có thể an tâm chết được rồi!» Và em cố gắng khoanh đôi tay sưng phù lên ngực.

Và mặc dù tình trạng sức khoẽ của cậu bé mỗi ngày một xấu hơn, nhưng khuôn mặt thanh thản sung sướng của em không chút suy giảm. Em nằm trên giường trông giống như một vị Thiên thần vậy.

Sau đó, khi em đã trở về và vào nằm trong nhà thương thuộc tỉnh nhà, em đã nói với một nữ y tá là em muốn được chết ở trong gia đình giữa cha mẹ em. Vì thế, người ta liền đưa em về nhà, vì giờ cuối đời em đã đến gần, em sắp được Chúa đem về Thiên Đàng.

Gia đình em ở trong một khu phố «đỏ» ngoại ô, một nơi chỉ toàn những gia đình đảng viên cộng sản ở. Cô y tá từ Lộ Đức đã đến thăm em và để cầu nguyện cho em, vì cô rất có cảm tình với em. Em bé nằm trên giường với một mỉm cười siêu nhiên thánh thiện rạng rỡ trên khuôn mặt thơ ngây của em. Và sự bình thản đó cũng tỏa ra trên nét mặt của mẹ em. Bà nói với cô y tá: « Cô ạ, một phép lạ đã xảy ra trong tối qua. Khi thằng bé nhà tôi hầu như tắt thở, thì chồng tôi đứng dậy và nói với tôi: ‘Anh muốn nhìn con lần cuối’. Tiếp đến, sau khi do dự một lát, ông ta đã lấy hết can đảm và nói với tôi:’Sáng mai, em hãy đưa anh đi gặp một vị Linh Mục’…»

Ở đây người ta có thể tự hỏi: Phải chăng Đức Mẹ còn có thể làm được một phép lạ khác vĩ đại hơn phép lạ Mẹ đã làm cho gia đình đứa bé trai bệnh tật này là đã cải hóa cha mẹ em, những người cộng sản vô thần quá khích biết ăn năn trở về cùng Thiên Chúa và Giáo Hội Người?
(Trích VietCatholic News)


+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
"Hãy sám hối" "Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại", Đức Mẹ Lộ Đức

HÀNH HƯƠNG LỘ ĐỨC TẠI NHÀ

HÀNH HƯƠNG LỘ ĐỨC TẠI NHÀ

Năm nay là kỷ niệm sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức được 150 năm (1858-2008).

Tại chính Lộ Đức bên Pháp đang diễn ra nhiều sinh hoạt đạo đức. Có sinh hoạt được thực hiện mọi ngày, suốt năm. Có sinh hoạt được tổ chức khác thường vào một số thời điểm được lựa chọn rải rác trong năm.

Từ Việt Nam số người đi Pháp hành hương Lộ Đức cũng đáng kể. Nhưng hầu hết hành hương đều tại nhà. Lý do vì hoàn cảnh kinh tế, sức khoẻ và công việc không cho phép.

Tôi cũng vào số những người hành hương tại nhà. Hành hương tại nhà cũng sẽ đạt được mục đích hành hương, khi đón nhận và thực hiện những sứ điệp mà Đức Mẹ đã trao cho nhân loại. Tại Lộ Đức, Đức Mẹ trao sứ điệp cho một con người bé mọn.

Sứ điệp thứ nhất là cuộc sống nghèo hèn

Cuộc sống nghèo hèn, đó là bé gái Bernadette, sinh ngày 07/01/1844.

Bernadette thuộc một gia đình rất nghèo của giai cấp lao động. Ông Soubirous, cha em, là người xay bột thuê. Bà Castérot, mẹ em, là người đi giặt mướn.

Ông Soubirous, một lần đang khi xay bột, bị mảnh đá nhỏ bắn vào mắt, làm hư một mắt.

Bà Castérot, khi mới sinh Bernadette, một lần bị cháy ngực, phải đưa con đi bú nhờ.

Em Bernadette, sống trong cảnh đói rét, nên bị bệnh suyễn nặng.

Vì quá nghèo và bận kiếm sống, Bernadette không được đến trường. Để có thể được rước lễ lần đầu, em được các nữ tu nhận vào lớp miễn phí.

Bernadette vừa lớn lên đã phải đi ở đợ. Đầu tiên giúp việc cho một quán ăn. Sau đó được một gia đình quen nhận làm đầy tớ, vừa giúp việc nhà, vừa chăn heo chăn cừu và kiếm củi.

Sống nghèo, nhưng luôn lương thiện đạo đức.

Sống nghèo, nhưng luôn cần cù, xoay xở kiếm sống một cách trong sạch ngay thẳng theo lương tâm tốt lành.

Sống nghèo, nhưng luôn phục vụ người khác bằng chính con người và cuộc sống bác ái của mình, dù cách phục vụ đó chỉ là làm thuê, làm đầy tớ.

Rồi một biến cố đã xảy ra.

Ngày 11/02/1858, Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette, khi em đang chăn cừu và kiếm củi giữa một thiên nhiên có núi hang và suối nước lạnh.

Đức Mẹ đã chọn một em bé nghèo, thuộc một gia đình nghèo, đang sống trong cảnh nghèo.

Đức Mẹ chọn kẻ nghèo và cuộc sống nghèo để đến với nhân loại, đó là một sự kiện đáng suy nghĩ. Sự kiện này gợi ý cho chúng ta nhớ lại sự kiện Con Thiên Chúa cũng đã chọn một gia đình nghèo ở xóm nghèo Nadarét để đến trần gian.

Tất cả cho phép chúng ta kết luận: Nghèo không phải là một tai hoạ. Nhưng nó sẽ là một dấu chỉ của sự Chúa đến, khi nó diễn tả sự lương thiện, khiêm tốn, cần cù và khát mong ơn cứu độ.

Sứ điệp thứ hai là sự cầu nguyện

Những lần được thấy Đức Mẹ hiện ra, Bernadette đều nhận được một cảm xúc khác thường. Cảm xúc đó xuất phát đột ngột bởi thái độ Đức Mẹ. Người luôn trong tư thế cầu nguyện. Đeo tràng hạt, tay chắp lại, mắt nhìn lên trời.

Thái độ cầu nguyện của Đức Mẹ thu hút Bernadette. Em tự nhiên mau lẹ bắt chước cầu nguyện. Khi vừa thấy "một Bà lạ" hiện ra, Bernadette phản ứng bằng việc rút trong túi ra một tràng hạt, đọc kinh và làm dấu thánh giá. Phản ứng đó chứng tỏ em có lòng đạo một cách hồn nhiên và bền vững. Cầu nguyện lúc đó căn bản là đáp lại một tình thương đến với mình, là lắng nghe, là yêu mến vâng phục.

Lúc đó, cầu nguyện cũng là một gặp gỡ với Chúa và Đức Mẹ. Một gặp gỡ rất sống động, rất tâm tình. Một gặp gỡ có sức biến đổi con người từ nội tâm sâu thẳm.

Những người xung quanh Bernadette cũng cảm thấy có một sức thiêng nào đó đang hiện diện một cách mãnh liệt. Họ trở nên thinh lặng, cũng tự nguyện cầu nguyện với tất cả tâm hồn mình.

Còn Bernadette, không lợi dụng những giây phút cầu nguyện, để cầu xin những ơn về vật chất, như sức khoẻ, của cải, cuộc sống thoải mái hơn. Nhưng em được đưa tâm hồn vượt trên những bận tâm đó, để chỉ tìm một hạnh phúc cao thiêng.

Lần hiện ra thứ ba, tức 18/02/1858, Đức Mẹ nói với Bernadette: "Ta không hứa ban cho con hạnh phúc của thế giới này, nhưng của thế giới khác". Lời đó đã đem lại cho Bernadette một niềm vui lớn lao. Em hiểu cầu nguyện là phải biết đón nhận hạnh phúc của thế giới ấy.

Lời Đức Mẹ nói đã mở ra cho Bernadette một chân trời mới về sự cầu nguyện.

Sứ điệp thứ ba là sám hối và cầu nguyện cho những tội nhân được trở về

Lần thứ 8 hiện ra, vào ngày 24/02/1858, Đức Mẹ dạy Bernadette:

"Hãy sám hối.

"Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội được trở lại".

Mấy trăm người đứng xung quanh Bernadette. Họ không thấy Đức Mẹ, nhưng thấy Bernadette nước mắt tràn trụa trên khuôn mặt rất buồn.

Khi thuật lại sứ điệp trên đây của Đức Mẹ, Bernadette cho biết tâm hồn mình cảm được phần nào nỗi đau của Chúa và Đức Mẹ vì tội lỗi con người.

Thêm vào đó, Bernadette xác tín: Để sám hối và để đưa kẻ có tội trở về đàng lành, thì phải có ơn Chúa. Vì thế, mà phải cầu nguyện. Kèm theo là những việc hãm mình, như làm những việc hèn hạ khổ chế.

Lần thứ 9 hiện ra, vào ngày 25/02/1858, Đức Mẹ đề nghị những việc hãm mình cụ thể, như hôn đất, đi bằng đầu gối, ăn cỏ. Nhờ những chỉ dẫn cụ thể trên, Bernadette hiểu hơn về sự hữu ích của những hãm mình bề ngoài và thể xác.

Sau này, cách sách tu đức về Lộ Đức đã cắt nghĩa về sự sám hối như một sự đổi mới. Đổi mới cái nhìn, đổi mới cách đánh giá, đổi mới nếp sống. Đổi mới một cách sâu xa. Chứ sám hối không phải là làm đôi nghi thức sám hối, đọc vài kinh sám hối là đã đủ.

Đang khi Lộ Đức bắt đầu trở thành nơi hành hương thu hút khắp nơi trên thế giới, Bernadette lại từ biệt Lộ Đức thân yêu để ẩn mình trong một tu viện các nữ tu Bác ái tại Nevers rất xa Lộ Đức. Chị âm thầm sống sứ điệp nơi thinh lặng đó, từ năm 1866 đến năm 1879. Lựa chọn trên đây được coi là một hy sinh hãm mình rất quý giá. Chị qua đời ngày 16/4/1879, thọ 35 tuổi.

Chị qua đi, nhưng sứ điệp vẫn còn, cả cho chúng ta nữa.

Hiện tình Hội Thánh có nhiều ánh sáng và cũng có nhiều bóng tối. Việc thực hiện những sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức là việc có thể thêm lên ánh sáng và bớt đi bóng tối, ngay trong chính bản thân ta.

Đức Mẹ đang đợi chờ mỗi người chúng ta.

Tác giả: Gm. JB. Bùi Tuần

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Sứ điệp Lộ Đức và Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm

Sứ điệp Lộ Đức và Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm

1. Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội

Biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức đã đạt tới cao điểm của nó vào ngày 25.3.1858, vào ngày Lễ Truyền Tin(1), ngày Đức Mẹ tự giới thiệu: «Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai!» Đó là lần thứ 16 trong 18 lần Đức Mẹ hiện ra cùng thiếu nữ Bernadette Soubirous ở hang núi Massabielle, miền Nam Pháp.

Quả vậy, trước câu hỏi của Bernadette: «Thưa Mademoiselle, xin cô vui lòng cho con biết cô là ai?», Đức Maria đã mở rộng hai tay ra hướng về trái đất. Sau đó Đức Mẹ lại chấp hai tay trên ngực, ngước mắt lên trời và nói bằng thổ ngữ địa phương của vùng đó vào lúc bấy giờ: «Que soy era Immaculada Councepciou» - Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai! Và Bernadette - tuy đã 14 tuổi, nhưng chưa rước lễ lần đầu và hầu như chưa học giáo lý gì cả - không hề hiểu được câu nói của «Madame trắng» kia. Dĩ nhiên khi đi xem lễ các ngày Chúa Nhật, Bernadette chắc chắn đã được nghe nói về ơn Vô Nhiễm Thai của Mẹ Thiên Chúa, nhưng em không hiểu được các bài giảng bằng tiếng Pháp. Hơn nữa, ý niệm «Vô Nhiễm Thai» đối với em cả là một điều bất khả tri giống như mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vậy. Sau biến cố hiện ra của Đức Mẹ, Bernadette đã phải nhắc đi nhắc lại câu nói «Que soy era Immaculada Councepciou» cho Vị Linh mục Quản Xứ của em cũng như các cơ quan chính quyền, nhưng đối với em câu nói đó cũng giống như một câu bùa chú, không thể hiểu được. Cha Peyramale, vị Quản Xứ lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về kiểu nói khác thường này, vì lúc bấy giờ người ta thường chỉ nói «sự vô nhiễm thai của Đức Maria» hay «Đức Maria vô nhiễm», chứ không một ai xưng tụng Đức Mẹ bằng tước hiệu «Đấng Vô Nhiễm Thai» cả. Chỉ về sau vị Quản Xứ mới hiểu ra được rằng kiểu nói đó là một minh chứng hùng hồn cho sự tinh tuyền tuyệt đối của Mẹ Thiên Chúa và việc Mẹ được cưu mang không hề vương vấn tội nguyên tổ. Chính tính chất đặc biệt của câu nói «Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai» đối với vị Quản Xứ - người vào lúc đầu hoàn toàn nghi ngờ về tính cách chính xác của việc Đức Mẹ hiện ra – đã trở thành luận cứ cho sự khả tín của sứ điệp trời cao, bởi vì bé gái thị kiến chưa đủ khả năng để hiểu được câu nói khó hiểu và bất bình thường đó.

Sứ điệp Lộ Đức gắn bó chặt chẽ với đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Mẹ, mà trước đó bốn năm – năm 1854 – đã được ĐTC Piô IX long trọng công bố thành tín điều. Như vậy, qua lời tự nhận mình là Đấng Vô Nhiễm Thai, Đức Mẹ đã gián tiếp chuẩn y quyền giáo huấn vô ngô của Đức Giáo Hoàng Roma, mà Công đồng chung Vatican I vào năm 1870 đã khẳng định như một giáo huấn bó buộc. Đức Piô XII trong Thông điệp dịp kỷ niệm 100 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, đã cho rằng: «Chắc chắn lời phán quyết vô ngộ của Đức Giáo Hoàng Roma, của Đấng diễn giải chính thức của chân lý mặc khải, không cần đến sự chuẩn y của trời cao hầu trở thành có giá trị cho đức tin của các tín hữu. Nhưng dân Kitô giáo và các chủ chăn của mình đã cảm thấy vô cùng xúc động và biết ơn khi câu trả lời của trời cao được phát ra trên môi miệng Bernadette: «Ta là Đấng Vô Nhiễm Thai!»

Nhưng lý do nào đã khiến Mẹ Thiên Chúa – qua biến cố hiện ra với Bernadette vào ngày 25.3.1858 - chuẩn y tín điều đã được Đức Piô IX công bố?

2. Sự diễn biến lịch sử của tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm

Ở đây chúng ta không bàn về sự can thiệp của trời cao, nhưng chúng ta chỉ dựa theo lý do về lịch sử các tín điều và về tìn trạng tinh thần đặc biệt vào giữa thế kỷ 19. Chúng ta có thể bắt đầu với một cái nhìn vào sự phát triển có tính cách lịch sử của định tín. Thật ra chưa có một tín điều nào đã phải trải qua một thời gian nghiên cứu và đầy tranh cãi lâu như tín điều Vô Nhiêm Thai của Đức Maria. Nguyên tắc nền tảng của tín điều là sự mặc khải được bày tỏ trong sự liên kết chặt chẽ của Mẹ Thiên Chúa với chương trình cứu độ của Đức Kitô. Theo «Tiền Phúc Âm» - (Protoevangelium), thì Thân Mẫu Đấng Messia là kẻ thù của «con rắn» (St 3,15) và vì thế Người không bị đặt dưới quyền lực của ma quỷ qua tội nguyên tổ được. Trong lời truyền tin của Thiên thần, Đức Mẹ đã được xưng nhận là Đấng đầy ơn phúc (x. Lc 1,28), Đấng được chính Thiên Chúa kén chọn để giao cho sứ mệnh làm Mẹ Con Một của Người. Từ nền tảng Kinh Thánh này, các thánh Giáo Phụ đã tuyên xưng Đức Mẹ ngay từ thế ký II là «Êvà mới» bên cạnh Đức Kitô, A-dong mới. Đức tin và sự vâng phục của Đức Mẹ đã quân bình được điều Eva gây ra do sự bất phục tòng của bà. Sự công bố long trọng tước hiệu «Mẹ Thiên Chúa» tại Công đồng Ephesus năm 431 đã kêu mời sự tin nhận Đức Maria là Đấng «hoàn toàn tinh tuyền» và Đấng «hoàn toàn thánh thiện». Từ thế kỷ VI, Giáo Hội mừng kính Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời – xuất phát từ phía đông đế quốc Roma - Nhờ vào sự liên kết đặc biệt của Người với công trình cứu chuộc của Đức Kitô, Đức Maria không thể bị rơi vào vòng hư nát của thể xác phàm nhân, mà tội A-dong đã gây ra. Sự so sánh Êvà-Maria, lời ngợi khen Mẹ Thiên Chúa và việc cử hành việc Đức Mẹ được rước về Trời là nền tảng cho sự phát biểu về nguồn gốc thánh thiện của Đức Maria trong Giáo Hội Đông Phương. Bằng chứng thứ nhất về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được tìm thấy trong một bài giảng của Đức Giám Mục Theotechnus thành Livias (ngày nay thuộc nước Gio-đan) vào thế kỷ thứ VI(2).

Trong khi đó ở Tây phương, lời phát biểu của thánh Augustinô (429) lại mang tính cách khác. Khi phát biểu về Đức Maria, thánh nhân không muốn đề cập đến

http://thanhcacongdong.com/ImagesLinhTinh2008/LoDuc-Bernadette.jpg
Thiếu nữ Bernadette (14 tuổi) đã được nhìn thấy Đức Mẹ

vấn đề tội lỗi, mặc dù quan điểm thánh nhân về vấn đề tội nguyên tổ nơi Đức Maria cũng không «tích cực» lắm(3). Từ thế kỷ VIII, Giáo Hội Đông Phương theo lễ nghi Hy Lạp mừng Lễ Đức Mẹ được cưu mang trong cung lòng thánh nữ Anna vào ngày 9 tháng 12. Từ thế kỷ XI Lễ này cũng được bắt đầu mừng ở Tây Phương theo lễ nghi La-tinh, khởi đầu từ Anh Quốc. Đan sĩ Eadmer thuộc Dòng Biển Đức, một học trò của thánh Anselm Canterbury (Tk. XII), là nhà thần học đầu tiên đã đề cập rõ ràng về sự thụ thai hoàn toàn không vướng mắc nguyên tội của Mẹ Thiên Chúa.

Trong khi đó, đa số các nhà thần học thời Trung cồ, đặc biệt thánh Tôma Aquinô và thánh Bonaventura, đã không đồng ý quan điểm như thế về Vô Nhiễm Thai của Đức Maria, nhưng cho rằng Đức Mẹ đã được thánh hóa ngay lập tức khi được cưu mang trong cung lòng thân mẫu Mẹ, vì theo các ngài, là một thành phần nhân loại, Đức Maria cũng cần sự cứu rỗi của Đức Kitô. Nghĩa là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, Đức Maria cũng vướng mắc tội nguyên tổ.

Điểm đột phá thần học rõ ràng và dứt khoát nhất về đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria là do Duns Scotus (+1308), nhà thần học người Anh thuộc Dòng Phan-xi-cô, phát động. Ông dựa trên tư tưởng «tiền cứu rỗi», qua đó Đức Maria – nhờ vào công nghiệp cứu chuộc của đức Kitô trong tương lại - đã hoàn toàn được gìn giữ khỏi nguyên tội ngay trước khi Mẹ được thụ thai.

Dựa vào thế giá thánh Tôma Aquinô, các nhà thần học Dòng Đa-minh đã trong một thời gian dài gắt gao chống lại sự xác tín lan tràn rộng rãi trong Giáo Hội chủ trương rằng Đức Mẹ đã được thụ thai mà không hề vương vấn nguyên tội; vì theo họ, nếu chủ trương như thế thì Đức Mẹ không được hưởng ơn cứu độ của Đức Kitô. Nhưng ngay trong hàng ngũ các thầy Dòng Đa-minh con số những người ủng hộ quan điểm «Immaculata Conception» mỗi ngày mỗi tăng. Từ thế kỷ XIV, các phân khoa thần học của các đại học danh tiếng ở Âu Châu – khởi đầu từ đại học Sorbonne ở Paris (Pháp), cũng như đại học Köln, Mains (Đức) và Wien (Áo), v.v… - chỉ cấp văn bằng đại học cho những sinh viên đồng thuận với giáo huấn Đức Mẹ Vô Nhiễm. Sự định nghĩa có tính cách tín lý về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria đã được đề xuất trong Công đồng Basel năm 1439, nhưng về sau vì không được đa số các nghị phụ đồng ý nên Đức Giáo Hoàng tuyên bố vô hiệu lực. Nhưng từ thế kỷ XV trở đi, các Đức Giáo Hoàng đều cổ vũ mỗi ngày một hơn việc tổ chức mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Do đó, vào năm 1708, Đức Clemens XI đã cho mừng khắp nơi trong toàn Giáo Hội. Dĩ nhiên, Sách Lễ Dòng Đa-minh có bản văn riêng, và trong đó ghi: «sự giải thoát của Đức Maria khỏi nguyên tội sau khi linh hồn được phó vào trong thể xác». Nhưng cuối cùng, vào năm 1842, câu văn này hoàn toàn bị loại bỏ. Bề Trên Cả Dòng Đa-minh xin phép cho Dòng của ngài cũng được mừng kính Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm cùng với toàn thể Giáo Hội.

Về phía Tòa Thánh luôn luôn ủng hộ sự xác tín phổ cập trong Giáo Hội về đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria. Đức Giáo Hoàng Sixtus IV nghiêm cấm tất cả những chống đối cho rằng giao huấn về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria là lạc đạo. Còn thánh Giáo Hoàng Piô V, một thầy Dòng Đa-minh, cấm đưa giáo huấn ra bàn cãi một cách công khai, ngoại trừ ở các đại học. Năm 1661 Đức Giáo Hoàng Alexandre VII đã ban hành một Sắc Chỉ nêu lên những yếu tố quan trọng, như một chuẩn bị cho định tín năm 1854.

Vào đầu thế kỷ XIX tín điều vẫn còn bị chống đối nơi một số người thuộc phái Jansénistes (phái Khắc Khổ) ở Pháp, bởi vì theo họ thì sự phát triển thần học của Giáo Hội đã được khép lại với thời thượng cổ (thánh Augustinô). Phái Jansénistes ngày xưa cũng có thể so sánh với một số các nhà thần học ngày nay đã giới hạn việc phát triển các tín điều lại trong thiên niên kỷ thứ nhất mà thôi. Nhưng đại đa số trong Hội đồng Giám Mục Đức và các phân khoa thần học trong vùng lãnh thổ nói tiếng Đức – dĩ nhiên không hẳn vì lý do đại kết Kitô giáo – đã tỏ thái độ hoàn toàn lạnh nhạt với khuynh hướng của các nhà thần học đó.

Bởi vậy, khi giáo sư thần học Georg Hermes (đh. Köln/Đức) và các học trò của ông tuyên truyền sự hoài nghi về đặc sủng vô nhiễm thai của Đức Maria, thì vào năm 1837 Đức Tổng Giám Mục Köln đã đòi buộc các Linh mục trong Giáo phận của ngài phải tuyên tín giáo huấn đó trên giấy tờ hẳn hoi. Ngoài ra, việc công bố cách long trọng tín điều đã được cổ vũ nhờ lời đề nghị của thánh Leonhard Porto Maurizio (1751) triệu tập một «Công đồng bằng văn thư», tức Đức Thánh Cha thăm dò ý kiến của các Giám Mục trên thế giới. Trong thế ký XVII và XVIII, các vua Tây Ban Nha luôn luôn cố gắng vận động ban hành tín điều.

Vào năm 1840, 51 Giám Mục người Pháp đã đệ trình Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI thỉnh nguyện thư xin ban hành thành tín điều. Và sau đó các Giám Mục khác cũng đồng thuận như vậy. Ngoài ra, từ năm 1834 một số lớn các vị Hồng Y, Giám Mục và các Dòng Tu (kể cả Dòng Đa-minh) đã xin Đức Grêgôriô đưa tĩnh từ «vô nhiễm» vào trong Kinh Tiền Tụng ngày Lễ Đức Maria được cưu mang và vào trong Kinh Cầu Đức Bà: «Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông», một điều mà các thầy Dòng Phan-xi-cô đã làm từ lâu. Đến năm 1847 thì các sách phụng vụ do Đức Piô X ban hành đều có thêm vào trong Kinh Tiền Tụng va Kinh Cầu Đức Bà tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Hiện tượng này đã làm sống động lại tinh thần sống đạo sốt sắng trong Giáo Hội Công Giáo, mà những biến động bất ổn của thời phục hưng cũng như cuộc cách mạng Pháp làm vùi lấp đi. Kho tàng truyền thống của Giáo Hội đặc biệt về Đức Kitô và Đức Maria lại được tái khám phá. Nhiều Dòng Tu mới thành lập đã đề cao lòng sùng kính Đức Mẹ. Biến cố chủ chốt chính là biến cố Đức Mẹ hiện ra cùng thánh nữ Catharina Labouré ở đường «Rue du Bac» ở Paris (1830), trong đó Đức Mẹ đã tự giới thiệu trên bức «Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn» với Lời Kinh: Ngoài ra còn có vô số tác phẩm thần học đã đóng góp vào công cuộc soạn sửa cho định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm, trong đó phải kể trước hết công trình đặc khảo của Linh mục Dòng Tên Giovanni Perrone năm 1847.

Từ năm 1848 các Ủy Ban Toà Thánh đã chính thức bắt đầu nghiên cứu vấn đề. Năm 1849, Đức Giáo Hoàng IX đã yêu cầu các Đức Giám Mục trên khắp thế giới cho biết ý kiến về định tín có thể sẽ được công bố. Trong số 603 vị trả lời, có 546 vị ủng hộ việc đưa đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria đặt thành tín điều. Trong số 57 vị Giám Mục còn lại, thì chỉ có 8 vị là hoàn toàn chống lại việc ban bố tín điều; số các vị còn lại hoặc giữ thái độ trung lập hoặc cho rằng việc lập thành tín điều là quá vội vàng. Dĩ nhiên, tất cả các Giám Mục đều chứng nhận rằng Dân Chúa khắp nơi xác tín rất sâu xa về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria.

3. Nội dung ý nghĩa của tín điều

Cuối cùng, vào ngày 8.12.1854, qua Sắc Chỉ «Ineffablis Deus», tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai đã được long trọng công bố: «Do quyền năng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và do quyền năng của Ta, Ta giải thích, tuyên bố và minh định rằng giáo huấn cho rằng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria nhờ ơn thánh và lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng dựa vào công nghiệp Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, đã được giữ gìn tinh tuyền trước vết nhơ tội nguyên tổ, được Thiên Chúa mặc khải và vì thế đòi buộc mọi tín hữu phải tin một cách chắc chắn và bền vững»(4).

Tín điều nhấn mạnh đến việc Đức Maria được gìn giữ hoàn toàn trước tội nguyên tổ. Sắc lệnh của Công đồng Trient về tội nguyên tổ đã định nghĩa: «Tội lỗi là sự chết của linh hồn» (peccatum, quod mors est animae)(5). Sự ghi nhận này người ta có thể tìm gặp trong Công Nghị Orange II năm 529(6) và trong các tác phẩm của thánh Augustinô. Các Giáo Phụ Hy-lạp cũng đồng một quan điểm như thế về hậu quả của tội nguyên tổ. Khác với Luther, một thầy Dòng Augustin và là cha đẻ của hệ phái Tin Lành ở Đức, Công đồng Trient phân biệt giữa tội nguyên tổ và khuynh hướng phạm tội (concupiscence), điều mà thánh Phaolô thỉnh thoảng cũng gọi là «tội»(7), nhưng đó không phải là «tội thực sự», nhưng là khuynh hướng «do tội gây ra và hướng chiều về tội»(8). Tridentinum cho rằng tội riêng của con cháu A-dong là hậu quả của ảnh hưởng tội nguyên tổ, là «sự di truyền của A-dong», và cuộc sống xum họp thân giao với thiên Chúa trên Thiên đàng được đánh dấu bằng ý niệm «sự công chính và thánh thiện»(9), điều mà thánh Phaolô cũng đề cập trong Thư Êphêsô (4,24) như là tình trạng của những người đã được chịu Phép Thánh Tẩy.

Điều quan trọng đáng ghi nhận ở đây là tính cách đặc biệt về việc gìn giữ khỏi tội nguyên tổ «nhờ ơn thánh và lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng» (singulari omnipotentis Dei gratia et privilegio)(10). Ở đây, người ta tự hỏi: Phải chăng đặc sủng này chỉ dành cho một mình Đức Maria mà thôi? Sắc Chỉ «Ineffabilis Deus» đã khẳng định rõ ràng là đặc sủng đó chỉ dành cho Mẹ Thiên Chúa mà thôi, và ngoài Đức Maria không một tạo vật nào được hưởng đặc sủng đó. Tuy nhiên, Đức Piô IX đã không công bố dự kiến xác định tính cách đặc thù tuyệt đối của việc Đức Mẹ Vô Nhiễm. Vì lý do đó, nên những ý kiến ngông cuồng quá khích cho rằng cả Thánh Giuse cũng được ơn vô nhiễm thai, đã không bị kết án một cách công khai.

Nhưng trong Thông điệp «Fulgens Corona» dịp kỷ niệm 100 năm tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm (1953), Đức Piô XII đã tuyên bố rõ ràng rằng ơn Vô Nhiễm là «đặc ân duy nhất không được dành cho bất cứ ai khác ngoài Đức Maria ra.» Cuối cùng, bản văn của tín điều đã nhấn mạnh rằng việc Đức Maria được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ là «nhờ vào công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại».

Như thế, Đức Maria không bị loại trừ khỏi sự cứu rỗi, nhưng là hiện thực một cách trọn vẹn nhất công trình cứu độ của Đức Kitô. Vì thế, Sắc Chỉ «Ineffabilis Deus» đã nhấn mạnh: «Rất Thánh Trinh Nữ Maria và Mẹ Thiên Chúa, nhờ vào công nghiệp của Chúa Cứu Thế, đã không hề bị vướng mắc tội nguyên tổ, nhưng đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội nguyên tổ ngay trước được cưu mang».

Bởi vậy, biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức được coi là ấn tín của trời cao chuyẩn y ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng, mặc dù định tín đã được «Công đồng bằng văn thư» của các Đức Giám Mục trên thế giới nhất trí ủng hộ. Đồng thời biến cố Đức Mẹ hiện ra cũng là một cú đòn đánh vào những trào lưu thế tục chống báng Thiên Chúa và Giáo Hội do các ảnh hưởng thời phục hưng để lại. Trong một bài báo vào năm 1870, giáo sư thần học tín lý Mathias Joseph Scheeben, đại học Köln, đã gọi ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng mà Công đồng Vatican I xác định, và tín điều về Đức Mẹ được Đức Piô IX công bố trước đó là hai «phương dược chính chữa lành cho những sai lầm cơ bản của thời đại chúng ta hôm nay: Chủ nghĩa tự nhiên, cùng với chủ nghĩa duy trí và chủ nghĩa tự do»(11). Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm đồng thời còn là sao mai của ơn thánh trên bầu trời của thế kỷ XIX, là ngôi sao đã loan báo trước «mặt trời ơn thánh xuất hiện trong xác phàm»; còn «ngai toà vô ngộ của Đấng Kế Vị Đức Kitô» là «sao hôm phản chiếu lại trọn vẹn ánh sáng của mặt trời chân lý vĩnh cửu đã lặn khỏi mặt đất», hầu ngăn chặn không để bóng tối vô đạo trở lại trên nhân loại nữa(12). Theo giáo sư Scheeben, hai ngôi sao đã nhận lãnh được „ánh sáng từ Đức Kitô, mặt trời ơn thánh và mặt trời chân lý“(13). Cả hai tín điều trình bày tính cách siêu nhiên của Kitô giáo một cách rõ ràng cụ thể. Với hai ngôi sao sáng chói đó, những tín hữu Công Giáo có thể chiến thắng được „hoả ngục và tinh thần thế tục“ đang tự huỷ diệt „trong sự tự phụ về bản chất, lý trí và sự tự do của mình“. Bởi vì, chủ nghĩa tự do cũng đã thấm nhiễm vào nhiều người Công Giáo, nhất là tại Đức, nên một sự suy niệm sâu xa về tính chất siêu nhiên của Kitô giáo là một điều hết sức quan trọng (14).

4. Nội dung sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức

Nếu tại Lộ Đức, Đức Mẹ đã tự giới thiệu là „Đấng Vô Nhiễm“, là Trinh Nữ và Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì đó không phải là một sứ điệp lẻ loi riêng biệt, nhưng là tột đỉnh của toàn diện biến cố Lộ Đức. Khởi đầu là lời kêu mời ăn năn sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa. Điều đó được đánh dấu trước hết bằng những đòi hỏi khẩn thiết của Đức Maria vào ngày 24 tháng 2.: "Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội“ – "Hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho những kẻ tội lỗi được ơn ăn năn trở lại!“ Và Đức Mẹ nói riêng cùng Bernadette: "Con hãy cúi mình xuống và hãy hôn mặt đất như là một việc đền bù cho các kẻ có tội.“ Sự tinh tuyền không chút bợn nhơ của Đức Maria là một hình ảnh đầy hy vọng chống lại tội lỗi đã từng hạ nhục con người và đồng thời đưa dẫn con người bước đi trên một con đường dốc đầy nguy hiểm. Và tận cùng của con đường này là sự tiêu diệt đời đời, nếu con người không hồi tâm ăn năn trở về cùng Thiên Chúa. Lời kêu mời sám hối phù hợp với lời rao giảng của Đức Giêsu: „Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!“ (Mc 1,15). Nơi Đức Maria, hình ảnh con người còn mang đầy tính chất nguyên thuỷ của nó như Thiên Chúa muốn, tức không vướng mắc tội lỗi. Nơi Mẹ, „Êvà mới“, lại tỏa sáng ơn Thiên đàng và đạt tới sự viên mãn trọn vẹn. Chân lý về Đức Maria như là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội đã củng cố sự can đảm của chúng ta, hầu cùng với ơn Chúa chúng ta có thể thoát khỏi được sự dữ và sống trong niềm hân hoan của Thiên Chúa.

Sứ điệp sám hối vào ngày 25 tháng 2 liên kết chặt chẽ với sự đòi hỏi: „Con hãy đi đến nguồn nước, hãy múc nuớc mà uống và hãy tắm rửa trong đó! Con hãy ăn các cây cỏ mà con tìm thấy mọc ở nơi đó!“ Để làm cho nguồn nước có thể phun chảy lên được, Bernadette đã phải lấy tay đào đất đầy bùn và sau nhiều lần tìm cách làm cho nước chảy ra từ cái vũng đất do em đào lên, Bernadette đã làm bẩn cả mặt mũi. Nhưng khi em bắt đầu ăn các cỏ dại mọc gần đó, nhiều người đã cho em là điên khùng. Nhưng em đã chấp nhận sự hiểu lầm đó của mọi người như của lễ đền bù và cầu nguyện cho kẻ có tội biết ăn năn trở lại.

Còn việc tắm rửa trong nước từ nguồn nước mà Đức Mẹ làm cho vọt chảy lên qua trung gian của Bernadette, nhắc nhủ đến Phép Rửa ăn năn sám hối của Gioan Tẩy Giả, Đấng đã đến để dọn đường cho Đức Giêsu trong lòng con người. Nước là tượng trưng cho sự tinh luyện cần thiết khỏi tội lỗi, nhưng đồng thời cũng là biểu hiệu của sự sống mới trong ơn thánh, một sự sống được ban cho nhờ Bí tích Rửa Tội. Ai đi hành hương Lộ Đức, sẽ canh tân lại ơn Rửa Tội, nhất là khi người đó chịu Bí tích Thống Hối. Nước là biểu hiệu cho sự sống sung mãn của ơn thánh phù hợp với cuộc sống thần linh mà Đức Maria đã được nhận lãnh ngay từ trước khi Mẹ được cưu mang, nhờ vào công cuộc cứu chuộc trong tương lai của Đức Giêsu, Con Mẹ. Trong đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria, mục đích sự ăn năn trở lại của chúng ta tỏa sáng lên, tức trở thành những con người mới, được Đức Kitô cứu rỗi.

5. Những biểu hiệu đặc trưng của Đức Mẹ Lộ Đức

Chính biến cố hiện ra của Đức Maria cũng cho thấy rằng đặc sủng Vô Nhiễm Thai đã rực sáng lên trong vẻ đẹp thiêng liêng của Thiên đàng. Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra với Bernadette như một thiếu nữ trẻ, mĩm cười và được bao bọc bởi một luồng ánh sáng huyền nhiệm. Đức Mẹ mặc áo trắng với dây thắt lưng màu xanh da trời, trên tay mang một tràng chuỗi Mân Côi màu trắng, trên hai chân điểm hai nụ hoa hồng màu vàng cùng mầu với dây tràng chuỗi Mân Côi. Tâm hồn Đức Maria đầy tràn ơn thánh - vì Mẹ được vô nhiễm nguyên tội – đã toả ra qua sự kiều diễm bên ngoài của Mẹ, đó điều mà Bernadette đã ghi nhận được một cách rõ ràng.

Màu áo trắng Đức Maria mặc trên mình muốn nói lên sự tinh tuyền thuần khiến của con người Mẹ, không hề vướng mắc bất cứ vết nhơ tội lỗi nào, nhưng đồng thời cũng nói lên rằng Mẹ đã hiện đến từ Trời Cao. Trong Kinh Thánh Tân Ước, màu „áo trắng“ là tượng trưng cho sự hiển dung của Đức Giêsu và đồng thời cũng là biểu hiệu cuộc sống thánh thiện tinh tuyền của các Thiên thần và các thánh trên Thiên đàng. Tiếp đến, màu trắng, mầu của ánh sáng tinh tuyền, là dấu hiệu của tính cách siêu thoát cao thượng và của niềm hân hoan, của sự tinh tuyền và của sự vinh hiển vĩnh cửu. Vì thế, mầu trắng là mầu phù hợp với Đức Maria nhất, Đấng được cưu mang vô nhiễm nguyên tội và là Đấng đã được đón nhận vào trong sư vinh hiển của Thiên đàng. Tiếp đến, mầu xanh dương cũng là một mầu tượng trưng cho Trời. Còn vàng là một dấu hiệu của sự cao quý nội tâm và phẩm hàm vương đế. Phẩm hàm vương đế và sự tham dự vào niềm hân hoan Thiên đàng đặt nền tảng trên đặc sủng độc nhất vô nhị của Mẹ, đó là Mẹ được cưu mang mà không hề bị nhiễm mắc nguyên tội và sự cộng tác bản thân của Mẹ vào trong công trình cứu chuộc của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Còn hoa hồng cũng là một biểu tượng nói lên sự Vô Nhiễm Thai. Hơn nữa, hoa hồng cũng là biểu tượng quen thuộc trong thời thượng cổ nơi nhà thi sĩ và là Giáo Phụ La-tinh Sedulius Caelius vào thế kỷ V. Bài thơ thời danh của ngài về „Con Chiên Phục Sinh“ (Paschale carmen) được coi như việc diễn giải Kinh Thánh bằng thơ thành công nhất của thời hậu cổ đại. Sedulius ước mong không chỉ những Kitô hữu, nhưng cả những người ngoại giáo biết làm cho con đường đức tin chân chính trở nên êm ái dễ chịu bằng tính chất yêu kiều đáng yêu của những vần thơ. Dựa vào công trình cứu độ của Đức Kitô, Sedulius cũng đưa ra một sự đối chiếu giữa Êvà và Đức Maria. Trong đó, ông trình bày Đức Maria như một bông hồng dịu dàng, tuy trổ sinh giữa những gai nhọn, nhưng vẻ kiềi diễm của Mẹ không hề bị sây sát thương tổn gì cả. Và như là Êvà mới Mẹ đã thanh tẩy những lầm lỗi của bà Êvà qua việc sinh hạ Đức Kitô(15). Sự tinh tuyền vẹn toàn của „Êvà mới“ được coi như sự trang bị cần thiết để cộng tác vào công trình cứu độ của Đức Kitô. Trên thực tế, Đức Maria đã được nhận lãnh ơn thánh của Đức Kitô ngay trước khi sự sống của Mẹ được bắt đầu hình thành trong cung lòng thân mẫu Mẹ, hầu về sau trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa và là Người đồng công cứu chuộc của Đức Kitô, Mẹ có thể cứu giúp được „mọi con cái Êvà đang bị lưu đày“. Vậy, mục đích của ơn Vô Nhiễm chính là sự trang bị ơn thánh cho sự cộng tác của Đức Maria trong chương trình cứu độ của Đức Kitô.

Lời Kinh Thánh nói về „bông hồng giữa bụi gai“ quả là một sự trình bày có tính cách thi vị tuyệt vời về sự tinh tuyền thanh khiết của Đức Maria. Ngoài ra, trong nghệ thuật thời Kitô giáo sơ khai, hoa hồng được biểu tượng là hình ảnh của Thiên đàng. Vẻ dịu dàng đáng yêu và sự sung mãn huy hoàng của nó còn làm cho hoa hồng thành hình ảnh của sự huyền nhiệm. „Hoa hồng mầu nhiệm“ (Rosa mystica) cũng là một tước hiệu quen thuộc để xưng tụng Đức Maria trong Kinh Cầu Đức Bà. Trong Sách Huấn Ca hình ảnh Đức Maria cũng được nhắc tới, khi nói về Đức Khôn Ngoan - được trình bày có tính cách biểu tượng như hình ảnh người phụ nữ - mọc lên tươi xinh „như khóm hồng ở Giê-ri-cô“ (Hc 24,14, bản Vulgata: quasi plantatio rosae in Jericho).

Sau cùng, một dấu chỉ về sự Vô Nhiễm Nguyên Tội còn biểu hiện ra trong ngày Truyền Tin, 25 tháng 3, ngày Thiên Chúa loan báo cho Đức Maria về chương trình giáng thế làm người của Đức Kitô, và trong đó Mẹ giữ vai trò chủ động khi Mẹ tự nguyện chấp thuận bằng hai tiếng „xin vâng“ việc thụ thai Con Một Thiên Chúa do quyền năng Chúa Thánh Thần. Vì cũng chính Chúa Thánh Thần, Đấng đã gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ tội nguyên tổ ngay trước khi Mẹ được cưu mang. Như vậy, cả hai thực tại - đặc sủng vô nhiễm và việc thụ thai Con Thiên Chúa – hoàn toàn liên hệ mật thiết với nhau, vì cùng do sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Qua tiếng „xin vâng“ của mình, Đức Maria xuất hiện như „Êvà mới“ thực sự. Vì những gì bà Êvà đã „trói buộc lại“ qua sự bất tuân phục của mình, thì Maria, „Êvà mới“, lại „tháo gỡ ra“ qua sự tuân phục của mình. Đức Maria, „Êvà mới“, luôn đứng bên cạnh Đức Kitô, „A-dong mới“, Đấng đã chiến thắng được Sa-tan và tội lỗi.

Vậy, tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm là một minh chứng hùng hồn về tâm hồn „đầy ơn phúc“ của Đức Maria (Lc 1,28). Nhưng sự đầy ơn phúc không gì khác hơn là mặt trái tích cực của cuộc sống không hề bị vướng mắc vào vết nhơ của tội nguyên tổ. Vì thế, lời tự giới thiệu của Đức Maria: „Ta là Đấng Vô Nhiễm“ phù hợp một cách tuyệt diệu với ngày công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngày Lễ Truyền Tin.

________________________

1. xem R. Laurentin, Les apparitions de Lourdes, 1966, tái bản 2002.

2. xem M. Hauke, Urstand, Fall und Erbsünde, 2007, trang 135-146.

3. xem G. Söll, Mariologie 1978, S.M. Cechin, L’Immaculata Concezione, 2003

4. Denzinger-Hünermann (DH) 2803.

5. DH 1512.

6. DH 372.

7. xem Rm 6,12-15; 7,7.14-20.

8. DH 1515.

9. DH 1512

10. DH 2803.

11. Das oekumenische Konzil vom Jahre 1869, Bd. II, Regensburg 1870, trang 507.

12. Immakulata und päpstliche Unfehlbarkeit. Sedes Sapientiae und Cathedra Sapientiae. Neu herausgegeben von J. Schmitz, Paderborn 1954, trang 20tt.

13. cùng chỗ như trên, 21.

14. cùng chỗ như trên, 22tt.

15. Carmen 2,28-34: PL 19,595tt

(Kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đứ: 1858-2008)
Lm Nguyễn Hữu Thy
VietCatholic News (Thứ Năm 07/02/2008 08:28)

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Sứ Điệp Đức Mẹ Lộ Đức




DẤU CHỈ HY VỌNG: NGÀY MỪNG LỄ ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC

Mừng kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức là dịp Giáo Hội muốn nhắc nhớ cho toàn thể các tín hữu biến cố trọng đại mà cách đây đúng 150 năm, vào ngày 11 tháng 2 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra với cô bé Bernadette trước cửa hang đá Massabielle-Lourdes (tiếng Việt Nam chúng ta quen gọi là Lộ Đức). Chỉ 5 tháng sau đó Giáo Hội đã mở các cuộc điều tra về biến cố này. Và vào ngày 18-01-1862, Đức Cha Laurence, Giám Mục Giáo phận Tarbes đã chính thức nhìn nhận việc Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức.

Lộ Đức ngày nay là một đô thành được cả thế giới biết đến. Với trên 7 triệu lượt khách hành hương hàng năm,
đã mang đến cho đô thành này chiều kích tâm linh có một không hai trên thế giới. Lộ Đức đã trở nên địa điểm gặp gỡ linh thiêng giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người với nhau. Không nổi tiếng vì có những những công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ. Không thu hút vì có những danh lam thắng cảnh lý tưởng. Không ấn tượng vì có những vĩ nhân hay giai nhân xuất thân từ đây. Nhưng Lộ Đức thực sự là nơi linh thánh, là nơi mà con người có thể tìm về chính mình, và cho đi chính mình.

Bạn nói rằng bạn biết yêu, hãy đến Lộ Đức để chứng minh. Bạn nói rằng bạn đang yêu, hãy đến Lộ Đức để tìm người yêu. Và nếu bạn nói rằng bạn không biết yêu, Lộ Đức chính là suối nguồn tình yêu cho bạn.

Lòng sùng kính Đức Mẹ Lộ Đức đặc biệt đã bén rễ sâu vào mọi tâm hồn các tín hữu Việt Nam trong nước cũng như ở Hải ngoại. Những bài hát, lời kinh, những tâm tình dâng kính Mẹ được cất lên hàng ngày trong các buổi kinh nguyện gia đình cũng như trước hang đá Lộ Đức của các giáo xứ. Vâng, một cuộc hành hương về bên Mẹ là niềm mong ước của tất cả mọi người, nhưng không phải ai cũng có thể thực hiện được điều đó. Do vậy, ước mong đó thôi thúc con kính mời quý bà, quý ông, và tất cả các bạn cùng tham gia “cuộc hành hương tinh thần” về bên Mẹ trong ngày lễ trọng đại này. Bằng cách chúng ta cùng nhau đọc lại sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức, cùng nhau cầu nguyện Thiên Chúa qua bầu cử của Mẹ cho Hoà Bình trên thế giới, cho những con người nghèo khổ, bệnh tật, thiếu các điều kiện sống tối thiểu, cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta, cho Thái Hà, cho Hà Đông và Toà khâm sứ cũ nữa.

Xin cho tình yêu và niềm hy vọng mãi ngự trị, sống động trong tâm hồn mỗi con người.

Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là dấu chỉ hy vọng mà Chúa gửi đến cho chúng con!
Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là nguồn suối mát cho tâm hồn chúng con!
Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, Mẹ chính là Tình Yêu đích thực của Thiên Chúa cho chúng con!
Xin cảm tạ Mẹ, xin Mẹ bầu cử cho chúng con trước toà Chúa.

Bản văn ‘Sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức’ bằng tiếng Việt Nam dưới đây được dùng chính thức tại đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức. Xin được gửi tới quý bà, quý ông và toàn thể các bạn. Chúng ta cùng đọc, suy niệm và cùng hiệp thông cầu nguyện cho nhau. Sưu tầm: Phê-rô Trần Mạnh Hùng

SỨ ĐIỆP ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC

Bạn hành hương đến Lộ Đức, hẳn không phải vì tò mò, nhưng có thể một vài thắc mắc còn đang phảng phất trong tâm trí của bạn:

- Tại sao lại cầu nguyện trước hang đá này?
- Tại sao các nhà thờ kia lại xuất hiện ở một nơi mà xưa chỉ là rừng núi hoang vu?
- Tại sao có từng đoàn người tụ họp ở đây?
- Tại sao lại có những cuộc rước kiệu như thế này?

Những việc ấy, với bạn, phải chăng hơi khó hiểu? Hoặc trái lại, bạn đã mơ ước một cuộc hành hương này từ lâu, và muốn coi đó như một bước tiến siêu nhiên thực sự. Vậy Lộ Đức với bạn bây giờ là nơi an bình, là chỗ cầu nguyện.

Nhưng khi bạn vừa đến nơi, rảo quanh đường phố, chắc bạn ngạc nhiên và có thể cảm thấy chướng mắt vì tính cách thương mại ở đây? Rồi khi vào đến khuôn viên này biết đâu bạn chẳng tưởng rằng mình sẽ xúc động nhiều, thế mà có thể lòng bạn vẫn dửng dưng?

Đừng dừng lại ở những cảm giác đầu tiên này bạn ạ. Dù bạn là ai đi nữa, trước hết hãy tự tủ rằng: ‘ Nơi đây mình đang được Người Mẹ nhân từ đón tiếp ’. Vậy bạn hãy tìm hiểu ý định của Người. Vì những gì bạn đang thấy đây, hoàn toàn không ngẫu nhiên, cũng chẳng phải là một thành quả do tổ chức của loài người! Mà là thực tại do việc trung thành thực thi sứ điệp mà Đức Mẹ đã trao ban cho Bernadette, sứ giả của Người.

Bernadette là ai? Đó là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc cũng không biết viết, con một gia đình nghèo, có lẽ nghèo nhất Lộ Đức. Gia đình cô được tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam, mà nay người ta vẫn còn gọi là ‘ ngục thất ’. Chính cái nhà giam tồi tàn này đã là nơi nương thân cho cả gia đình, gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette. Nhưng Đức Mẹ lại muốn chọn một cô bé tại chính nơi nghèo hèn này để làm sứ giả của Người, hầu thực hiện nơi đây những điều kỳ diệu mà bạn đang thấy.

Bạn có hiểu: Tại sao có sự nghèo khổ đến thế?
Tại sao có sự cùng khốn đến như vậy?

Đức Ki tô đã chẳng nói: “Phúc cho những kẻ nghèo khó” đó sao? Hơn nữa ơn huệ Lộ Đức chỉ có thể đến nhờ những kẻ nghèo khó này! Cuộc sống của Bernadette quá tầm thường, không có gì đáng ta chú ý. Nhưng sự ngoan ngoãn vâng lời của cô quả là một đức tính cao quí! Cô luôn lập lại nguyên văn sứ điệp của Đức Trinh Nữ Ma ri a, và can đảm kiện toàn ý định của Người. Đây bạn hãy lắng nghe Bernadette kể lại lần đầu tiên Đức Mẹ hiện ra với cô:

“Lần thứ nhất tôi đến hang đá vào ngày thứ năm 11-02-1858 để nhặt củi với hai bạn gái khác. Lúc đến máy xay tôi hỏi họ: Các bạn có muốn đi xem chỗ nước kênh chảy vào sông Gave không? Họ nói: có. Thế là chúng tôi men theo bờ kênh, đến trước một hang đá, tự nhiên tôi không thể bước xa hơn được nữa. hai bạn tôi đã tìm đủ mọi cách để lội qua giòng nước trước hang đá, khi qua được rồi thì họ bắt đầu khóc. Tôi hỏi: tại sao các bạn khóc? họ bảo: Vì nước lạnh quá! Tôi nhờ họ bỏ mấy tảng đá to xuống nước để tôi có thể bước qua mà khỏi phải cởi giày, nhưng họ đã từ chối và bảo tôi phải lội qua như họ. Tôi thử ra xa hơn một chút để xem có thể bước qua được không nhưng không thể được, tôi đành lùi lại để cởi giày. Vừa cởi xong chiếc tất thứ nhất, tôi nghe có tiếng gió thổi thật mạnh, tôi vội quay sang phía đồng cỏ đối diện với hang đá, nhưng cây cối vẫn im lìm! Tôi tiếp tục cởi giày thì lại có tiếng gió thổi nữa…và vừa ngẩng đầu nhìn hang đá, tôi chợt thấy một Bà với sắc phục màu trắng. Bà mặc áo dài và đội khăn trắng, thắt lưng xanh, trên mỗi bàn chân lại có một bông hoa màu vàng, giống màu tràng hạt đeo trên tay Bà. Lúc ấy tôi hơi sửng sốt, tưởng mình nhìn lầm, tôi dụi mắt nhìn kỹ lại lần nữa, nhưng vẫn cũng nhìn thấy Bà đó. Tôi lấy tràng hạt từ trong túi ra, và muốn làm dấu Thánh giá, nhưng tôi không thể nâng nổi bàn tay lên trán. Tay tôi run len vì sợ, nhưng tôi không bỏ chạy. Bà cầm tràng hạt đeo trên tay, rồi làm dấu Thánh Giá, tôi cũng thử làm theo Bà, và lần này tôi mới ‘làm dấu’ được. Vừa làm dấu thánh giá xong tôi hết không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Tôi quỳ xuống lần hạt trước mặt ‘Bà đẹp’ ấy. Tuy tay lần hạt mà môi Bà không mấp máy. Khi lần hạt xong, Bà vẫy tôi lại gần nhưng tôi không dám. Thế rồi Bà biến mất.”

Sau lần này, Bernadette còn được trông thấy Bà hiện ra 17 lần nữa. Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18-02, Bà mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không? Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”

Trong 15 ngày tiếp đó, Bà đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều:

- Con hãy cầu nguyện cho kẻ có tội.
- Hãy sám hối! sám hối! sám hối!
- Con hãy đến uống và rửa ở suối này.
- Con hãy ăn những ngọn cỏ kia.
- Con hãy hôn đất đền thay cho kẻ có tội.
- Con hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây.
- Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu.

Đức Trinh Nữ còn dạy Bernadette một kinh nguyện riêng và ký thác cho cô bà điều bí mật. Tuy nhiên Bà vẫn chưa cho cô biết tên. Mãi đến ngày 25-03-1858 Bà mới mặc khải cho cô danh tánh của mình. Đây bạn hãy nghe Bernadette vắn tắt kể lại những lần hiện ra trong vòng 15 ngày ấy:

“Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây; hãy đến uống và rửa ở suối này; phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 ngày ấy Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà ba lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười. Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực:

‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU’

Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng pháp là: ‘ Je suis l’Immaculée Conception ’, và dịch sang tiếng việt nam là: ‘ Ta, Vô Nhiễm Nguyên Tội ’. Đó là những lời cuối cùng mà Bà nói với tôi, Bernadette nói. Cô còn tả thêm: Bà có đôi mắt xanh. Sau đó cô còn được thấy Bà hai lần nữa. Một lần vào thứ tư trong tuần phục sinh, ngày 7-04. Và lần cuối cùng vào ngày 16-07. Trong lần cuối cùng đó, cô thấy Bà đẹp một cách khác thường. Hẳn bạn nhận thấy trong những lần hiện ra, Đức trinh Nữ đã nói rất ít. Qua những ước muốn của Người, ta nhận thấy sứ điệp của Người trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi sau đây:

- Mời gọi cầu nguyện.
- Mời gọi sám hối.
- Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện ở đây.

1- Mời gọi cầu nguyện.

Không cần những lời tuyên bố dài dòng, cũng chẳng cần đến những lý thuyết cao siêu, Đức Ma ri a trong vai trò một huấn luyện viên thành thạo, đã cầu nguyện với Bernadette. Ngay khi hiện ra lần thứ nhất, Người đã dậy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng. Mỗi lần hiện ra Người đều làm như vậy. Người con dậy riêng cho Bernadette một kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.

Tại sao Đức Mẹ phải nhấn mạnh đến sự cầu nguyện? Chính vì tâm trí ta dễ bị phân tán và xâm chiếm bởi nhiều nỗi khó khăn, lo lắng. Tất cả chúng ta đều cần có những lúc cầm trí, sống trong thinh lặng, hầu dễ đặt mình trước mặt Chúa để thờ lạy Ngài, và như kẻ ăn xin cùng khổ tỏ bày với Ngài mọi nhu cầu của mình.

Chúng ta đừng tưởng đó là thái độ tự nhiên và dễ dàng. Cầu nguyện là một việc rất khó, vì nó đòi hỏi ta phải biết tách mình ra khỏi những công việc bận rộn hàng ngày, để tâm trí ta được Đức tin tự do hướng dẫn. Ta hãy nghe lời nhắn nhủ khẩn thiết của Đức Mẹ Lộ Đức: Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.

2- Mời gọi sám hối.

Đức Trinh Nữ đã lập lại với Bernadette ba lần: ‘ Hãy sám hối, sám hối, sám hối ’. Người dạy cô một việc đền tội tiêu biểu: hôn đất và uống nước đục! tại sao vậy? Vì hãm mình đền tội là điều cần thiết để duy trì thế quân bình nơi ta, và giúp ta có đủ khả năng cu toàn bổn phận. Hơn nữa, trong việc đền tội, Chúa Ki tô sẽ giúp ta, sẽ tha tội cho ta, chính Ngài đã thiết lập và đặt vào đời sống ta bí tích cáo giải. Thông qua linh mục ta được ơn tha tội, được sức mạnh và lòng quảng đại, để thăng tiến, hầu nên giống Chúa Ki tô, gương mẫu của ta, cách đặc biệt hơn.

Vì, hoàn tất một cuộc hành hương tốt đẹp, không phải chỉ lãnh Bí Tích Cáo Giải, nhưng chính là phải quay về với Thiên Chúa, diệt trừ nơi ta mọi trở ngại cho tình yêu của Ngài. Tóm lại, ta phải mô phỏng trong đời sống của mình cái lý tưởng đã được đề ra, như chính Chúa Ki tô đã sống. Tất cả những cố gắng ấy chính là điều mà chúng ta gọi là: lòng sám hối, là ơn cải hoá, là ơn trở lại.

Ngày 25-02-1858 Đức Mẹ nói với Bernadette: ‘ Con hãy đến uống và rửa ở suối này ’. Người chỉ cho cô tìm ra một giòng suối, mà hiện nay vẫn còn tiếp tục chảy trong hang đá. Suối nước này ban đầu rất đục, nay bùn đã lắng xuống, và trở thành suối nước trong suốt. Đó chính là dấu hiệu cho sự sám hối của ta. Nó tượng trưng cho sự cố gắng mà chúng ta phải có, để làm lắng đọng trong ta tất cả những gì là u ám, vẩn đục hầu nên giống Chúa Ki tô. Và đó cũng là một trong những ơn huệ Lộ Đức.

3- Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện.

“Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu”

Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích Thánh Thể. Để đáp lại nguyện vọng của Đức Ma ri a mà ba đại giáo đường đã lần lượt được xây cất ở đây:

- Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ vô nhiễm.
- Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi.
- Vương cung thánh Đường PIÔ X.

“Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn” , cha sở Lộ Đức Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình cha về lời yêu cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.

Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu. Chính tại nơi đây, Thánh lễ cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng, vì thế Lộ Đức thật xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tich Thánh Thể”. Đức PIO X cũng coi Lộ Đức như “Ngai toà vinh hiển nhất của nhiệm tích Thánh Thể trên thế giới”. Đó không phải là một thai độ phô trương, mà là một nhu cầu:

- Làm sống động niềm tin của chúng ta vào Đức Ki tô khải hoàn, luôn hoạt động trong Giáo Hội.
- Làm phát triển tình huynh đệ của chúng ta đối với mọi anh em.
- Đưa chúng ta đến tận suối nguồn trường sinh.

Như lời của Đức Cha Théas: “Nhiệm Tích Thánh Thể hoàn tất cuộc trở lại của chúng ta.”

Ba lời mời gọi khẩn thiết trên chính là sứ điệp của Đức Mẹ Lộ Đức. Người ta chỉ còn đợi Người ký tên xác nhận, và quả thật Người đã ký nhận sứ điệp này cách tuyệt diệu vào ngày 25 tháng 3 năm 1858: “ TA, VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI”

Danh hiệu này quá cao siêu, chưa một nhà thần học nào dạy Bernadette và dĩ nhiên Bernadette càng không thể bịa ra được. Đức Ma ri a hiện diện giữa chúng ta như một tạo vật cao đẹp nhất, Người thực thi kế hoạch của Thiên Chúa cách trọn hảo nhất. Người thật xứng đáng được trọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế.

Cùng với hàng trăm, hàng triệu khách hành hương ở Lộ Đức, chúng ta hợp lòng dâng lên Mẹ từ ái lợi ca tụng tuyệt mỹ, mở đầu cho kinh kính mừng: ‘ Kính mừng Ma ri a đầy ơn phúc, Đức Chúa trời ở cùng Bà ’, và đồng thời cũng xin Mẹ thương ban trên chúng ta, những kẻ tội lỗi, ánh mắt nhân hiền của Người, để khi nhìn ngắm Mẹ, chúng ta có đủ khả năng hoán cải tâm hồn.

Trong thời gian hành hương tại Lộ Đức, chúng ta đắm mình trong bầu khí thinh lặng và cầu nguyện này, để mong tìm được ở đó nguồn sống mới. Ta hãy để ân sủng Lộ Đức thấm nhuần tận tâm can, vì nhờ đó, Đức Ma ri a sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa Giê su, con Cực Thánh của Mẹ. Amen.
Phêrô Trần Mạnh Hùng
VietCatholic News (Thứ Bảy 09/02/2008 15:37)



+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

NƯỚC ĐỨC MẸ LỘ-ĐỨC

NƯỚC ĐỨC MẸ LỘ-ĐỨC






Câu chuyện xảy ra vào năm 1868 tại Paris, thủ đô nước Pháp.

Bà Marcelle Dubois là tín hữu Công Giáo 35 tuổi. Bà lập gia đình và sinh hạ 5 đứa con. Bỗng một sớm một chiều đôi mắt bà bị yếu hẳn. Bà kinh hoàng thầm nghĩ có lẽ rồi đây mình sẽ bị mù chăng? Bị mù vào năm 35 tuổi và còn phải chăm sóc đàn con 5 đứa! Thật là đại họa!

Bà Marcelle giảm dần các công việc nội trợ trong nhà. Từ từ, bà không còn đọc và viết được nữa. Bà đi hết bác sĩ nhãn khoa này đến bác sĩ nhãn khoa khác, nhưng bệnh vẫn hoàn bệnh. Mọi hy vọng gần như tiêu tan.

Bà gần như chìm sâu vào sầu não tuyệt vọng. Thêm vào đó, ông Thaddée - phu quân bà - vắng nhà. Ông đang ở Luân Đôn bận lo công việc làm ăn. Bà vốn là tín hữu Công Giáo ngoan đạo, nhưng giờ đây, đứng trước thực tế phũ phàng, bà hầu như đánh mất trọn Đức Tin nơi THIÊN CHÚA là Cha, Đấng hằng yêu thương chăm sóc con cái loài người.

Bà thổ lộ tâm tình với người bạn thân và nhờ bạn viết thư báo cho chồng ở Luân Đôn biết. Ông Thaddée đang trọ nơi nhà bạn thân người Anh, tín hữu Tin Lành. Nhận thư, ông Thaddée đem câu chuyện kể cho bạn hiền nghe. Nào ngờ, ông bạn Tin Lành là tín hữu nhiệt thành. Ông từng nghe nói về các phép lạ Lộ-Đức. Và ông đã đích thân đến tận nơi để có thể chứng kiến tận mắt những cuộc khỏi bệnh lạ lùng xảy ra nơi trung tâm thánh mẫu Lộ-Đức. Ông từng trông thấy bệnh nhân đau mắt được khỏi bệnh. Giờ đây nghe ông bạn nói đến trường hợp đau mắt của vợ, ông khuyên bạn nên chạy ngay đến cùng Nước Phép Lạ Đức Mẹ Lộ-Đức.

Nào ngờ ông Thaddée quyết liệt từ chối. Ông là tín hữu Công Giáo, nhưng thuộc loại tín hữu duy lý, chỉ chấp nhận tin những gì xem ra có vẽ hợp lý. Còn chuyện Nước Phép Lạ Lộ-Đức đối với ông chỉ là chuyện tin tưởng nhảm nhí, nếu không muốn nói là dị đoan!

Phản ứng đầu tiên của ông Thaddée là quyết liệt từ chối. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, ông chấp nhận làm theo lời khuyên của bạn hiền người Anh, tín hữu Tin Lành. Ông tự nhủ:

- Đây là một lời khuyên vô thưởng vô phạt. Mình chả mất mát gì, nếu chẳng may mình không nhận được ân huệ nào đến từ Nước Phép Lạ Lộ-Đức. Vậy thì nên làm theo lời khuyên của bạn.

Nghĩ thế nên ông Thaddée viết thư cho hiền thê. Ông bảo bà xin ngay Cha Sở Lộ-Đức nước Đức Mẹ. Ông cũng báo tin mình sắp trở lại Paris.

Trở về nhà, ông Thaddée cẩn thận theo sát lời khuyên của người bạn Tin Lành. Nghĩa là, bạn khuyên cả hai vợ chồng chuẩn bị nhận lãnh ơn lành Đức Mẹ Lộ-Đức bằng cách dọn mình xưng tội. Ban đầu cả hai vợ chồng hơi do dự, bởi lẽ lời khuyên đến từ một tín hữu Tin Lành. Nhưng rồi càng suy nghĩ, cả hai càng cảm thấy bạn có lý và nhất định làm theo lời bạn khuyên. Ông bà cùng lãnh nhận bí tích Hòa Giải. Vài ngày sau, Nước Phép Lạ cũng đến từ Lộ-Đức.

Hai vợ chồng quì gối trước bức tượng Đức Mẹ MARIA. Ông Thaddée thành khẩn kêu cầu Đức Mẹ với lời nguyện:

- Lạy Đức Mẹ Rất Thánh, vì đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin Mẹ hãy đoái thương đến con và đến hiền thê trẻ của con. Xin Mẹ chữa vợ con khỏi chứng bệnh thể xác và chữa con khỏi tật mù lòa tâm linh.

Cầu nguyện xong, với tâm tình run run cảm động, ông lấy Nước Phép Lạ Đức Mẹ Lộ-Đức đổ vào khăn tay và nhẹ nhàng áp khăn tay lên đôi mắt vợ.

Tức khắc phép lạ xảy xa. Cả hai cùng được khỏi bệnh. Bà Marcelle nhìn thấy rõ ràng đồng thời Đức Tin được củng cố. Trong khi ông Thaddée hoàn toàn hoán cải. Ông thống hối về tội cứng tin và trở về với tâm tình con thảo đối với THIÊN CHÚA và nhất là, đối với Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.

Sau biến cố trên đây, người bạn Tin Lành của hai ông bà cũng xin trở về với Giáo Hội Công Giáo, Duy Nhất, Thánh Thiện và Tông Truyền.

(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.6, 8-2-2004, trang 13).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Bí Mật Lộ Đức

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Theo diễn tiến của Biến Cố Thánh Mẫu nổi tiếng được chính thức công nhận xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay, thì người ta chỉ nghe nói đến Bí Mật Fatima và Bí Mật La Salette thôi, chứ đâu có bao giờ nghe đến Bí Mật Lộ Đức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có Bí Mật Lộ Đức. Đúng thế, trong 18 lần hiện ra với thiếu nữ Bernadette 14 tuổi tại một hang động ở Massabielle, vào lần hiện ra thứ 7, 23/2/1858, người thiếu nữ quê mùa bần cùng thất học chưa được rước lễ lần đầu này cho biết là Mẹ Maria quả thực đã tiết lộ cho cô biết 3 bí mật riêng (three personal secrets), những bí mật nhiều người tò mò muốn biết nhưng cuối cùng chẳng ai được biết vì Mẹ Maria không cho cô nói lại với ai. Thậm chí cho tới nay, cho dù Bí Mật Fatima phần thứ ba là bí mật đầy rùng rợn (theo óc suy tưởng của nhiều người), tưởng chừng như không bao giờ được Tòa Thánh công bố, vì ích chung, cũng đã được lịch sử ghi nhận nội dung của nó khi nó được Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin chính thức tiết lộ ngày 26/6/2000, nhưng Bí Mật Lộ Đức vẫn hoàn toàn là một huyền nhiệm.

Bí Mật Lộ Đức sở dĩ không được tiết lộ, trước hết, có thể là vì bí mật này chỉ liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette thôi. Nếu liên quan tới tình hình thế giới và Giáo Hội, chắc chắn không sớm thì muộn cũng được tiết lộ thôi, như trường hợp của Bí Mật Fatima phần thứ ba vậy. Có thể một trong ba bí mật được Mẹ Maria tiết lộ cho người con gái sống trên đời 35 năm ngắn ngủi đầy đau thương này liên quan tới thân phận của chị, như Mẹ đã tỏ cho chị biết vào lần hiện ra thứ ba, 18/2: “Mẹ không hứa với con hạnh phúc ở đời này mà là đời sau”, một lời cũng đã được tân Chân Phước Zélie Guérin (mới được tôn phong cùng chồng là Louis Martin vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2008 ở vương cung thánh đường Lisieux Pháp quốc), mẹ của chị Thánh Thérèse Hài Đồng Giêsu, cảm nghiệm khi đi hành hương Lộ Đức vào những ngày cuối đời nhưng không được phúc chữa lành. Người ta cũng có thể suy đoán thêm một trong 3 điều bí mật riêng tư được Mẹ Maria tiết lộ cho chị biết ấy liên quan tới ơn gọi tu trì của chị, vì chị đã bắt đầu sống đời tận hiến trong Dòng Chị Em Bác Ái ở Nevers ngày 4/7/1866, khi chị được 22 tuổi, sau Biến Cố Lộ Đức 8 năm, cho đến ngày chị qua đời 13 năm sau, 16/4/1879.

Tuy nhiên, ngoài 3 bí mật tư riêng liên quan tới bản thân của vị thụ khải Bernadette, thực tế cho thấy có một Bí Mật Lộ Đức liên quan đến hết mọi người, bởi thế cần phải tìm hiểu và khám phá để có thể đáp ứng “dấu chỉ thời đại” nơi Biến Cố Thánh Mẫu 150 năm (1858-2008) đặc biệt này, nhất là vào dịp Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2008, một lễ liên quan tới danh xưng “Mẹ hoài thai vô nhiễm tội – Que soy era Immaculada Councepciou” của Mẹ ở Lộ Đức vào lần hiện ra thứ 16 ngày 25/3. Vậy cái được gọi là Bí Mật Lộ Đức đây là gì, nếu không phải là cái bí mật tại sao Lộ Đức là nơi có một danh xưng liên quan tới linh hồn vô nhiễm của Mẹ lại là nơi xẩy ra những phép lạ chữa lành xác thân con người? Đúng thế, có hai đặc điểm chính yếu và chuyên biệt ở Lộ Đức, thứ nhất đó là danh xưng “Mẹ hoài thai Vô Nhiễm Tội”, khác với ở danh xưng của Mẹ ở Fatima “Mẹ là Đức Bà Mân Côi” ngày 13/10/1917, và thứ hai là các cuộc chữa lành bệnh nạn phần xác cho con người, một sự kiện không xẩy ra ở các Biến Cố Thánh Mẫu khác, dù biến cố ấy có thể nổi tiếng hơn như Fatima chẳng hạn. Nếu quả thực đây là Bí Mật Lộ Đức thì ý nghĩa của nó là gì và tại sao lại như thế?

Vào ngày 13/6/2008, tôi có nhận được một điện thư của vị muốn giúp ý kiến về đề tài tĩnh tâm có lợi cho cả hai đoàn thể Đạo Binh Xanh và Đạo Binh Đức Mẹ: Thánh Mẫu học theo thánh An Phong hay thánh Long Mộng Phố, hoặc linh đạo Fatima. Tôi đã đề nghị trong năm 2008 là thời điểm Mừng Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 năm, cũng là thời điểm Mừng 20 năm Phong Thánh cho Các Chứng Nhân Đức Tin trên Đất Việt, đề tài nên chọn là lời Mẹ nói với chị Thánh Bernadette vào lần hiện ra thứ ba 18/2/1858: ‘Mẹ không hứa với con hạnh phúc đời này mà là đời sau’. Đề tài này rất thích hợp với Bí Mật Fatima phần thứ ba liên quan tới thị kiến tử đạo. Trong phần hội thảo chung, tôi đề nghị nêu lên vấn nạn là: ‘Tại sao ở khi hiện ra ở Lộ Đức, Mẹ Maria tự xưng mình 'Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Tội' ngày 25/3 là những gì liên quan đến phần hồn của Mẹ mà Mẹ lại biến Lộ Đức thành Trung Tâm Thánh Mẫu duy nhất nổi tiếng về các phép lạ chữa lành phần xác cho một số tâm hồn?’ Thế rồi vào ngày 11/8, vị này cho tôi biết rằng: “Đề tài này tuy vậy mà cũng khó, phải có những gợi ý”. Tôi đã hồi âm cho vị ấy là: “Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời được chất chứa trong lời ĐTC GPII huấn dụ trong huấn từ Truyền Tin ở Lộ Đức ngày 15/8/2004 như sau: ‘Từ tảng đá ở động Massabielle, Vị Trinh Nữ này đã hiện ra với Bernadette. Tỏ mình ra như Đấng đầy ơn phúc của Thiên Chúa, Mẹ đã kêu gọi thống hối và nguyện cầu. Mẹ đã chỉ cho Bernadette một mạch nước, và xin em uống mạch nước này. Mạch nước mới mẻ ấy đã trở thành một trong những biểu hiệu của Lộ Đức: một biểu hiệu của sư sống mới được Chúa Kitô ban cho tất cả những ai hướng về Người.’”.

Trong Bài Giảng cho Thánh Lễ Mẹ Đau Thương Thứ Hai 15/9/2008 cho Thành Phần Bệnh Nhân trước tiền đường của Đền Thờ Đức Mẹ Mân Côi Lộ Đức, ĐTC Biển Đức XVI, trong chuyến tông du Pháp quốc ngày 12-15/9/2008, đã tiếp tục khai triển chiều hướng trên đây của ĐTC Gioan Phaolô II liên quan tới biểu hiệu nước ở Lộ Đức, như thể hai vị tỏ ra muốn cùng nhau đi sâu vào tất cả những gì là huyền nhiệm ở Lộ Đức để hoàn toàn làm sáng tỏ cái thực sự là Bí Mật Lộ Đức này trước mọi người:

“Nụ cười của Mẹ Maria là suối nước sự sống. Chúa Giêsu phán: ‘ai tin Tôi thì từ lòng họ sẽ vọt lên những giòng sông chảy nước sự sống’ (Jn 7:38). Mẹ Maria là người đã tin tưởng, và từ cung lòng của Mẹ, những giòng sông chảy nước sự sống đã tuôn ra tưới dội lịch sử loài người. Giòng suối mà Mẹ Maria chỉ cho Bernadette ở Lộ Đức đây là một dấu hiệu đơn sơ về thực tại thiêng liêng này. Từ trái tim tin tưởng của Mẹ, từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ, chảy ra nước sự sống để thanh tẩy và chữa lành. Bằng việc dìm mình vào những bể tắm ở Lộ Đức, rất nhiều người đã khám phá ra và đã cảm nghiệm được tình yêu thương từ mẫu dịu dàng êm ái của Vị Trinh Nữ Maria này, bằng việc tỏ ra gắn bó với Mẹ để liên kết mình chặt chẽ hơn với Chúa! … Đó là lý do tại sao có rất nhiều bệnh nhân đến Lộ Đức đây để được giãn cơn khát của mình nơi ‘nguồn mạch yêu thương’ này, và để cho mình được Mẹ dẫn đến với nguồn cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Cứu Thế Con Mẹ”.

Tóm lại, nếu ở Fatima, tất cả Bí Mật Fatima (3 phần) được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917, là “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria”, một trái tim liên quan tới định mệnh chung của nhân loại, đến trình trạng “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới được hòa bình”, thì tất cả Bí Mật Lộ Đức là ở nơi nụ cười của Mẹ Maria, một cử chỉ độc đáo chưa từng có trong lịch sử Biến Cố Thánh Mẫu, một nụ cười là suối nước sự sống tràn đầy “vui mừng và hy vọng”, có tác dụng gia tăng đức tin phần hồn, thậm chí chữa lành cả phần xác của một số tâm hồn thiên định nào đó.

Nếu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima liên quan đến lửa, (sự kiện mặt trời nhẩy múa trên trời ngày 13/10/1917), cũng như tới tước hiệu Mẹ Mân Côi, cả hai ám chỉ quyền thế của Mẹ đối với Thiên Chúa (như Bí Mật Fatima phần 3 cho thấy), thì Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức liên quan tới nước, (sự kiện mạch nước vọt lên từ đất ngày 25/2/1858), cũng như tới tước hiệu Mẹ Vô Nhiễm, cả hai ám chỉ tình trạng Mẹ dồi dào ân sủng là để mang lại sự sống cho con cái khổ đau, như ĐTC BĐXVI khẳng định trong huấn từ Truyền Tin CN 14/9/2008 ở Lộ Đức như sau:

“Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ là một ơn huệ của một cá nhân, mà là một ân sủng cho tất cả mọi người, một ân huệ được ban cho toàn thể dân Chúa. .. chúng ta là con cái của Mẹ Maria, chúng ta cũng được hưởng bổng lộc từ tất cả mọi ân huệ Mẹ có; phẩm vị khôn sánh Mẹ có được nhờ Hoài Thai Vô Nhiễm rạng ngời chiếu tỏa trên chúng ta là thành phần con cái của Mẹ”.

Bí Mật Fatima và Bí Mật Lộ Đức có một liên hệ mật thiết với nhau thế này: nếu ở Fatima Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Mẹ tỏ cho Lucia biết “là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa”, thì ở Lộ Đức, Đấng “hoài thai Vô Nhiễm Tội” đến là để “thông ơn Thiên Chúa” cho con cái của mình, được thể hiện rõ ràng nhất qua những lần Mẹ chữa lành phần xác cho một số cá nhân đặc biệt nào đó, trong vô số trường hợp được cho biết là mỗi năm có khoảng 40 vụ chữa lành trình báo cho giáo quyền địa phương Lộ Đức, nhưng Giáo Hội mới chính thức công nhận 67 phép lạ. Nếu việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật được thuật lại trong các Phúc Âm là những gì chứng thực Vương Quốc Thiên Chúa gần đến hay Ơn Cứu Độ sắp hoàn thành thế nào, thì những việc chữa lành phần xác cho con người ở Lộ Đức mãi đến ngày nay, trong một thời đại văn minh tân tiến tột độ về khoa học và kỹ thuật nhưng lại đang bị phá sản đức tin từ thế kỷ 19, cũng là những gì báo trước Nước Mẹ trị đến cho Nước Chúa vinh quang, Nước của “Đức Mẹ Mân Côi” cũng là “Đức Mẹ Thắng Trận”, Đấng đã khẳng định ở Fatima ngày 13/7/1917 cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai là “cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng”!

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Từ Lộ Đức đến Lavang Tâm sự của một Linh mục

Từ Lộ Đức đến Lavang Tâm sự của một Linh mục

BY: SR. ANNE MARIE NGUYỄN THỊ HƯỜNG

Đây là lần thứ tám linh mục Albert đến Việt Nam vì công việc riêng. Lần đầu tiên cách đây 3 năm cha đến với tư cách là một thành viên trong đoàn du lịch, đa số là người nước ngoài, để tham quan một đất nước, tuy dân chúng, đa số còn nghèo nàn vì nhiều lý do, nhưng thiên nhiên thì giàu đẹp và quyến rũ, còn tình người thì chan hòa và dễ mến, như lời người ta thường kháo láo với nhau sau những chuyến du lịch từ Việt Nam trở về. Mà thật vậy, vừa đặt chân xuống phi trường Nội Bài ở Hà Nội, cha Albert đã có một cảm giác lâng lâng dễ chịu, với sự khoan thai, thư thả của người Việt Nam nói riêng và người Á châu nói chung. Tuy các nhân viên hải quan có bộ dáng lạnh lùng và hơi nghiêm nghị đôi chút, nhưng bù lại những người đến đón tiếp tại phi trường thì thật ân cần, vồn vã và dễ thân thiện. Với lại, trưởng đoàn và phó đoàn trong chuyến đi nầy đều là gốc Việt, nên với sự tận tâm lo lắng và săn sóc kín đáo cho từng người đã gây được niềm cảm phục và lòngï quý mến của mọi thành viên trong đoàn.

Sau 3 ngày tham quan các danh lam thắng cảnh ở Hà Nội như Hồ Hoàn kiếm, Văn Miếu, Chùa Một Cột, Nhà Thờ Phát Diệm, vịnh Hạ Long... Đoàn tiến vào Trung, rồi đến Miền Nam, để rồi kết thúc việc tham quan trên chuyến bay Air France, trở về cố hương. Tuy ở Huế ít ngày hơn các nơi khác, vì thành phố nhỏ và các di tích lịch sử không cách xa nhau lắm, vậy mà cha Albert đã "để rơi con tim” tại đây. Có phải vì các cô gái Huế với thân hình thon nhỏ, dáng diệu duyên dáng trong chiếc áo dài tha thướt, e ấp bên chiếc nón bài thơ, làm rung động lòng người, như với các chàng "học trò trong Quảng ra thi” chăng? Hay là vì sự linh thiêng, vấn vương đầy vẻ ngậm ngùi nơi chốn Hoàng Thành rêu xanh, đổ nát, đã trải qua một thời ngựa xe rềnh ràng chăng? Hay là tại giòng sông Hương thơ mộng, hiền hòa, êm đềm, lững lờ trôi giữa hai bờ cây cối xanh tươi chăng? Thưa không, chỉ vì những trẻ em bất hạnh, nghèo nàn và khuyết tật của hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị đó thôi. Một vùng đất chật hẹp và nghèo nàn, đã hứng chịu biết bao thiệt thòi do chiến tranh gây nên. Nhất, là do biến cố Mậu Thân 1968, tiếp đến là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và sau đó là biến cố lịch sử 1975. Những trẻ em ngày đó, bây giờ đã là cha, là mẹ cả rồi, nhưng nỗi lo lắng và khiếp sợ vẫn còn ghi mãi trong tâm trí. Một số đã đi lập nghiệp phương xa, đó là những người có chút của cầm tay. Số còn lại không đủ khả năng tài chánh, nên đã cố bám víu vào tấm ruộng, mảnh vườn của cha ông, nên đã cho ra đời một thế hệ trẻ thơ, mà mức sống chẳng hơn gì bố mẹ. Các em đến lớp lôi thôi lếch thếch, có khi có ăn nhưng cũng lắm khi cơn đói cồn cào. Một số em kém may mắn hơn, do ảnh hưởng của chất độc da cam, nên lúc sinh ra đã bị dị tật suốt đời. May mắn là có các nữ tu đã tuyên khấn tận hiến đời mình cho Thiên Chúa và phục vụ cho hạnh phúc của đồng bào, nên đã đảm đương những công việc dạy dỗ và giáo dục các em, cũng như lo lắng và chăm sóc đặc biệt cho các em khuyết tật. Cha Albert đã đến kịp thời để cộng tác và trợ lực cho các nữ tu nầy làm tốt công tác phục vụ xã hội nầy.

Cha kể lại, trong lần thứ hai trở về Huế, với mục đích dạy tiếng Pháp theo lời yêu cầu của một số người, qua sự gợi ý của một người bạn: liệu cha Albert có giúp gì cho Việt Nam không? Cha đã suy nghĩ và tối hôm đó, trong phòng ngủ tại khách sạn, cha đã trăn trở và trải qua một đêm thức trắng, sáng mai lại, tờ lịch tường ghi rõ ngày 21 tháng 7. Chính ngày này đây, cách đây 50 năm, hiệp định Genève đã chia đôi đất nước Việt Nam thành hai: Bắc và Nam, và trong suốt hơn 30 năm, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đã xảy ra, gây nên không biết bao là đau khổ, chết chóc và nghèo đói cho một dân tộc được mệnh danh là anh hùng và bất khuất... Từ những ý nghĩ nầy xảy ra trong trí, cha Albert đã đề nghị làm một chuyến hành hương đến Linh Địa Đức Mẹ Lavang để xin ơn soi sáng nên - làm cái gì cho Việt Nam - Và như vậy là sau khi dâng Thánh Lễ tại Vương Cung Thánh Đường Lavang, cha đã có quyết định rõ ràng là sẽ giúp các trẻ em thiếu may mắn tại đây.

Lúc trở về nước, cha Albert đã trình bày với Bề Trên về tâm tư và nguyện vọng của mình là giúp đỡ các em nghèo nàn của xứ Miền Trung nầy. Được sự chấp thuận của Bề Trên, cha Albert đã bắt đầu chiến dịch "gõ cửa lòng” của đồng bào mình, những người dư ăn dư mặc vì sống trong một xã hội vật chất đầy đủ. Trước tiên là nhờ ơn Chúa, thứ đến là nhờ vào lối thuyết trình, nói chuyện chân tình, hài hước nhưng không kém phần sâu xa... của cha, đã đánh động lòng nhiều người, nên kẻ ít người nhiều đã rộng tay giúp đỡ... Dồn lại được một số kha khá, cha đã xin mẹ mình một vé máy bay và đem về hết số tiền gom được giao tận tay cho những người chăm sóc trực tiếp các trẻ em nầy... Sau nhiều suy nghĩ, tính toán và sắp xếp, cuối cùng, cha đã xin được giấy phép thành lập một Hội để việc giúp đỡ được liên tục và bảo đảm hơn. Một lần nữa, ơn Chúa thương, công việc tiến hành tốt đẹp và Hội đã được phép hoạt động, có quy chế rõ ràng và số thành viên của Hội cũng đã lên tới hàng trăm. Cha Albert vui mừng và cám ơn Đức Mẹ Lavang vô cùng, nên mỗi lần tới Huế, việc trước tiên là đi kính viếng và dâng Thánh Lễ tại Đền Mẹ.
Ngoài việc lo cho Hội, cha Albert cũng nhận bảo trợ thêm một số các em câm điếc hay gặp hoàn cảnh khó khăn khác. Trong số các em nầy, có Hải, năm nay 13 tuổi, đang học lớp sáu. Hải có khuôn mặt đẹp và nụ cười tươi. Chính nụ cười nầy đã quyến rũ cha Albert lúc ngài băng qua sân một cộng đoàn tu sĩ. Rồi một hôm, sau khi đem Hải đi mua sắm về, trong bữa cơm, có Hải ngồi bên cạnh, Cha Albert nói:”Hải đẹp trai lắm, tới tuổi 18 chắc có lắm cô chạy theo”. Đối diện ngài là một chị khá mau miệng hỏi lại: "Cũng như cha, cha đẹp lại còn năng động và vui tính nữa, lúc cỡ tuổi đó, có nhiều cô chạy theo không?” Cha trả lời: "Chính tôi chạy theo người ta!” Rồi bắt đầu từ đó, cha thổ lộ tâm sự của mình.

Rosalie và Albert quen nhau vào năm thứ hai Đại học. nàng đi về Y và chàng theo ngành Luật. Trong mấy năm liền, hai người yêu thương và quý mến nhau. Gần nơi trọ học của Albert, có một cộng đoàn tu sĩ. Thỉnh thoảng chàng cũng gặp vài tu sĩ, nhưng chỉ chào hỏi xã giao qua loa thôi. Rồi một hôm, Albert nảy ra ý nghĩ - liệu tôi có ơn gọi đi tu không? - Sau nhiều suy nghĩ, đắn đo, Albert xin hẹn và đến gặp một trong các vị tu sĩ đó. Vị tu sĩ nầy đã giới thiệu và giúp Albert làm quen với một vài Dòng tu trong Giáo Hội. Cũng chính ngài khuyên Albert nên gia nhập đoàn thanh niên thiện nguyện làm việc tại Lộ Đức, để hướng dẫn khách hành hương hay giúp đỡ các người bệnh tật vào các mùa hè, nhấât là các dịp lễ vào tháng bảy và tám hằng năm. Lần thứ nhất, thứ hai, rồi thứ ba... Albert say sưa với công việc thiện nguyện giúp đỡ các bệnh nhân tại nơi đây. Nhất là mỗi đêm về, khi các bệnh nhân đã yên giấc, Albert đi ra, hoà mình vào đoàn hành hương để rước kiệu, tung hô Mẹ, hay lặng lẽ trước hang đá, nơi Mẹ hiện ra với Bernadette, trong tầm nhìn của Mẹ để lần hạt, hoặc thưa lên với Mẹ những tâm tư thầm kín của mình. Và cũng chính tại đây, Albert đã xác định ơn gọi làm tu sĩ của mình.
Phải mất mấy tuần, Albert mới tỏ bày được ý định của mình cho Rosalie biết. Phần thì vì tình cảm rất sâu đậm giữa hai người, phần thì vì không muốn cho Rosalie buồn lòng. Nàng xứng đáng là người yêu và là người vợ lý tưởng, nàng đẹp, thông minh lại hiền lành, tế nhị nữa. Tuy nhiên, phản ứng của Rosalie thật can đảm và dễ thương... Thay vì khóc lóc, hờn dỗi, nàng đã sẵn lòng chấp nhận, tuy không khỏi đau khổ, buồn sầu... Sau đó, Albert xin vào dòng.

Albert đã qua giai đoạn tìm hiểu, rồi tập viện trong an bình, dưới sự đồng hành của các người đặc trách. Còn mấy tháng nữa để quyết định khấn lần đầu. Thời gian nầy thật là cam go cho Albert, chàng nghi ngờ - tôi có thật sự có ơn gọi tu dòng hay không? làm sao có thể sống nổi cuộc đời đơn côi và tẻ nhạt... như thế nầy suốt cả đời? Thật là khó! Cùng với những nghi ngờ đó, hình ảnh của Rosalie lại hiện lên, xâm nhập cả tâm trí, trong mọi lúc và mọi nơi. Cuối cùng Albert đã lục lại quyển carnet cũ để tìm ra địa chỉ của Rosalie. Lá thư đầu tiên như là một quả bóng thăm dò, và được hồi âm tức khắc... Và trong ba tháng liền, không ngày nào mà hai người không viết cho nhau cả. Thời gian qua đi, sắp đến ngày tĩnh tâm để khấn tạm, Albert phải có quyết định dứt khoát. Một lần nữa, Albert đã biên một bức thư dài hỏi ý kiến của Rosalie. Bức thư được gởi đi vào đầu tuần, theo sự thường, chàng sẽ nhận được thư trả lời vài ngày sau đó. Nhưng không, Albert chờ sốt ruột cả tuần, cho đến sáng thứ bảy, mất hết kiên nhẫn, chàng đến ngay ông gác cổng để hỏi xem người đưa thư đã đi qua chưa? Và được trả lời là không hiểu vì lý do gì, người đưa thư đã không đến sáng nay như thường lệ. Với một tâm trạng hụt hẫng, Albert lên đường đi tĩnh tâm. Tuần tĩnh tâm kết thúc, Albert tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Chàng đã tìm về Lộ Đức để cám ơn Đức Mẹ và để tâm sự với Mẹ những diễn tiến mới nhất trong tâm hồn. Sau đó, chàng đi thẳng đến Nhà Mẹ của Dòng để tuyên khấn lần đầu cùng với một người anh em khác nữa. Mọi lễ lạc, tiệc tùng qua đi, Albert lên đường trở về cộng đoàn trong niềâm hân hoan của một Tân khấn sinh. Tuy nhiên, niềm vui vụt tắt, khi mà chàng nhận thấy trong số thư được gởi đến lúc chàng vắng mặt có một thư của Rosalie, đến ngay buổi chiều chàng rời cộng đoàn, trong đó, bằng một lời lẽ tha thiết, nàng quyết định lập gia đình với chàng. Trớ trêu thay! Chàng vừa mới khấn có mấy ngày! Tuy dứt khoát, nhưng sự việc nầy cũng khiến chàng đau khổ một thời gian. Sau khi lấy lại bình tĩnh, chàng nhất quyết không giữ liên lạc với Rosalie nữa.

Mười năm sau, trong một lần thăm viếng "quốc gia của Giáo Hoàng” tại Avignon. Lần nầy cụ sáu Albert đang chuẩn bị bước lên bàn thánh trong vài tháng nữa. Thầy ghé vào siêu thị để tìm mua một vài thứ cần thiết. Đang lúc rảo qua các gian hàng, Albert đưa mắt dán vào một dáng người lướt qua từ xa, trong tầm nhìn của mình - Có phải là Rosalie đó không? Nàng làm gì ở đây? Và như có một ma lực nào đó thúc đẩy, Albert rảo chân bước theo, tuy vẫn giữ một khoảng cách cần thiết. Đột nhiên trong đầu óc nảy ra ý nghĩ - để làm gì? - Nếu phải là nàng tôi phải có thái độ nào cho xứng hợp trong lúc nầy? Mãi cho tới lúc nàng tiến ra quầy tính tiền, thì Albert như cảm thấy có một sức mạnh nào đó kéo thầy đi ra phía khác. Trở về bãi đậu xe, mở cửa xe bước vào, ngồi trước tay lái, nước mắt tuôn rơi. Thầy Albert đã khóc thật... Sau nầy, tình cờ, bằng một cú điện thoại với một người bạn cũ, Albert biết được là Rosalie đã ly dị chồng, đã ở riêng với đứa con gái 6 tuổi, và có phòng mạch tại Avignon...
... Kết thúc câu chuyện, cha Albert nói: "Như vậy là ơn Chúa luôn giữ gìn tôi. Chính Ngài đã chọn và trung tín với tôi, cho dù tôi thế nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương và chở che tôi. Tôi nghĩ, giá như bức thư của Rosalie đến với tôi trước khi khấn, hoặc tại Avignon tôi gặp lại Rosalie trong hoàn cảnh đáng thương của nàng lúc đó... tôi không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi. Thạât là ơn Chúa luôn đủ cho tôi và Đức Mẹ Maria, Mẹ Lộ Đức hay Mẹ Lavang luôn theo dõi và cứu giúp tôi”. Phần chúng ta, cám ơn Chúa, vì nếu thầy Albert đã không can đảm dừng chân đúng lúc, thì Giáo Hội đã không có thêm một linh mục trẻ trung, vui tính và rất hòa đồng với mọi người, nhất là những ai già cả và đau yếu. Các trẻ em nghèo khổ của chúng ta đã không có một người cha bảo trợ rất mực thương yêu và tốt lành như hiện có.

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Thêm một phép lạ tại Lộ Đức chữa lành người bất toại

Thêm một phép lạ tại Lộ Đức chữa lành người bất toại


TURIN, ITALIA (CNA) - Một phụ nữ bị bệnh thần kinh nghiêm trọng phải ngồi xe lăn để di chuyển đã hoàn toàn có thể tự do bay nhảy sau chuyến hành hương đến Lộ Đức vào đầu tháng 08 qua. Người phụ nữ này tin rằng chính nhờ tắm nước tại Lộ Đức mà bệnh của bà đã khỏi.

Bà Antonia Raco, 50 tuổi, đã ngồi xe lăn từ 4 năm nay vì chứng tê liệt cơ bắp do mất tế bào thần kinh (Amyotrophic Lateral Sclerosis), hay còn gọi là bệnh sơ cứng teo cơ. Bà đã thực hiện chuyến hành hương đến Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức hôm 05-08-2009.

Nói với thông tấn xã ANSA, bà Raco cho biết: "Từ khi trở về nhà, tôi đã có thể đi lại và làm mọi thứ như trước đây, thậm chí tôi còn chạy được nữa."

Bà Raco sống ở một ngôi làng gần thành phố Potenza miền Nam nước Ý. Bà nói rằng bà muốn coi điều này như "một món quà, một hồng ân hơn là một phép lạ."

Bà tường thuật lại việc lúc đang tắm ở dòng suối chữa lành tại Lộ Đức: "Khi đó tôi nghe có tiếng khích lệ tôi và một cơn đau mãnh liệt ở hai chân."

Thứ ba tới, Raco sẽ đến để các chuyên gia khám tại bệnh viện danh tiếng Molinette ở Turin. Bác sĩ chuyên khoa Adriano Chiro tại bệnh viện là người chữa trị bệnh tật cho bà từ năm 2005.

Lộ Đức thuộc Pháp quốc đã trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng kể từ năm 1858, khi thánh nữ Bernadette Soubirous được thị kiến Đức Mẹ ở hang núi. Theo những lời chỉ dẫn của Đức Maria, thánh nữ Bernadette cạo mặt đất đá bên cạnh hang núi cho tới khi dòng suối nước chảy ra. Suối này cung cấp cho người hành hương 27.000 gallon nước mỗi ngày. Nhiều phép lạ đã được ghi nhận nhờ nước từ Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức.

Thánh nữ Bernadette qua đời ngày 16-04-1879 ở tuổi 35. Ngày 22-09-1909, Đức cha Gauthey của giáo phận Nevers và các giáo chức Giáo hội đã cho khai quật thi hài của thánh nữ Bernadette Soubirous. Trước sự hiện diện của nhiều vị chuyên gia được Tòa Thánh chỉ định cho vụ án phong thánh, bao gồm 2 bác sĩ và một nữ tu bề trên của công đoàn khi xưa của thánh nữ. Tất cả đều chứng kiến thân xác của thánh nữ còn nguyên vẹn không hề hư nát không thể lý giải được về mặt khoa học, còn cây Thánh Giá và chuỗi hạt trong tay của thánh nữ thì đã bị ôxi hóa. Chính điều này đã góp phần bổ sung vào kho phép lạ cho biến cố phong thánh của thánh nữ. Sau khi khai quật quan tài, người ta tắm rửa và thay quần áo cho thánh nữ trước khi đặt thân xác ngài trở lại một quan tài hai lớp. Ngày nay, xác thánh nữ Bernadette nguyên vẹn và tươi tắn như đang nằm ngủ được trưng bày trong quan tài pha lê cho dân chúng kính viếng và vẫn không hề có dấu hiệu phân hủy sau 130 năm kể từ ngày mất.


+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY

Phép Lạ Lộ Đức và Bác Sĩ Alexis Carrel

Lạy Mẹ nhân hiền, Đấng hằng cứu giúp những ai khốn cùng khiêm tốn kêu cầu Mẹ, xin Mẹ hãy gìn giữ con. Con tin nơi Mẹ. Mẹ đã dùng một phép lạ cả thể để trả lời cho nghi ngờ của con. Con chưa biết nhận ra phép lạ và còn tiếp tục hồ nghi. Nhưng ước muốn lớn lao nhất và khát vọng thâm sâu nhất của lòng con là đạt đến Đức Tin!

Đó là lời cầu xin tha thiết của ông Alexis Carrel (1873-1944), bác sĩ Pháp trẻ tuổi, tại đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, vào một đêm khuya vắng năm 1903, sau khi chứng kiến phép lạ một thanh nữ khỏi bệnh.

Alexis Carrel chào đời tại Lyon (Bắc Pháp) trong một gia đình Công Giáo đạo đức. Alexis mồ côi Cha năm lên 4 tuổi và được Mẹ giáo dục trong niềm kính sợ THIÊN CHÚA. Nhưng khi lớn lên và trở thành sinh viên xuất sắc, Alexis bỗng đánh mất Đức Tin Công Giáo đơn sơ trong tuổi thơ của mình. Việc Alexis mất Đức Tin một phần do ảnh hưởng chủ thuyết duy vật vô thần rất thịnh hành trong xã hội Âu Châu vào những thập niên cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Năm 30 tuổi, Alexis Carrel trở thành bác sĩ và là giáo sư giải phẫu học nổi tiếng của phân khoa thuốc đại học Lyon. Một ngày trong năm 1903, giáo phận Lyon tổ chức cuộc hành hương Lộ Đức dành riêng cho các bệnh nhân.

Vì bị ngăn trở vào phút chót, một bác sĩ bạn nhờ bác sĩ Carrel thay mình tháp tùng các bệnh nhân. Bác sĩ Carrel miễn cưỡng nhận lời, nhưng tận thâm tâm ông vui mừng vì được dịp nhạo cười và chỉ trích tại chỗ những chuyện gọi là ”phép lạ Lộ Đức”. Theo ông, đó chỉ là chuyện nhảm nhí của các tín hữu Công Giáo vô học, ngây thơ và dễ tin!

Trước luận cứ vô thần của ông, một bác sĩ khác, cùng tháp tùng các bệnh nhân trong chuyến hành hương Lộ Đức năm đó, vặn lại:

- Có những trường hợp bị ung thư, lao phổi nặng và bị mù lòa thật sự mà y khoa bó tay, lại được chữa khỏi cách lạ thường, khiến các bác sĩ thuộc đủ mọi quốc tịch – có Đức Tin hay không Đức Tin – đều không thể nào giải thích được. Vậy anh nghĩ sao?

Bác sĩ Alexis Carrel vẫn ngoan cố trả lời:

- Chuyện không thể nào xảy ra được! Chắc chắn là các cuộc khám nghiệm không thi hành nghiêm chỉnh: trước, trong khi, và sau khi khỏi bệnh! Cho tới giờ phút này, các phép lạ chưa được nghiên cứu một cách khoa học. Ngoài ra, chấp nhận phép lạ tức là chấp nhận sự kiện một cách ngu xuẩn, bởi vì, luật lệ thiên nhiên bất biến .. Tuy nhiên, trước một sự kiện tỏ tường, chắc chắn người ta bị bó buộc phải công nhận. Do đó, nếu tôi tận mắt chứng kiến một sự kiện, hẳn tôi sẽ cúi đầu chấp nhận!

Thách thức của bác sĩ Alexis Carrel được chính Đức Mẹ Lộ Đức trả lời.

Trong chuyến hành hương, bác sĩ Carrel được giao nhiệm vụ chăm sóc cách riêng một nữ bệnh nhân tên Marie Ferrand, 24 tuổi. Cô bị bệnh lao phổi ở thời kỳ chót và mắc thêm chứng bệnh sưng màng bụng đau đớn. Các bác sĩ bó tay và cô nằm chờ chết. Nhưng cô có nguyện vọng sau cùng là hành hương Lộ Đức. Lời van nài của cô được chấp thuận.

Chuyến đi càng làm cho bệnh tình cô nặng thêm. Khi đến Lộ Đức thì hầu như cô chỉ còn thoi thóp thở. Bác sĩ Carrel đặc biệt chăm sóc cô và ông thấy rõ cô có thể tắt thở bất cứ lúc nào. Ông nói với bác sĩ bạn:

- Nếu cô này khỏi bệnh thì thật là phép lạ! Lúc đó tôi sẽ tin và sẽ cắt tóc đi tu làm thầy dòng!

Người ta định mang cô Marie Ferrand xuống hồ tắm, nhưng vì bệnh tình quá trầm trọng, người ta chỉ dùng nước suối Lộ Đức thoa rửa trên người cô. Bác sĩ Carrel luôn luôn đứng bên cạnh cô. Ông thầm thì:

- Ôi ước gì con được giống như những tín hữu Công Giáo đáng thương, biết tin tưởng vào quyền lực chữa trị của nước suối Đức Mẹ! Xin Mẹ chữa lành thanh nữ này vì cô quá đau đớn. Xin Mẹ cho cô sống thêm thời gian nữa và xin cho con có được Đức Tin!

Bỗng chốc, bác sĩ Alexis Carrel trông thấy rõ ràng bệnh nhân hồi sinh. Gương mặt cô gái từ từ trở nên hồng hào. Nhịp mạch, nhịp tim đập trở nên bình thường. Cái bụng phình to tướng đang từ từ xẹp xuống. Hiện tượng lạ lùng đó diễn ra trong vòng 20 phút. Đúng 3 giờ chiều, cô Marie Ferrand nói lớn tiếng:

- Con đã được khỏi bệnh!

Người ta mang đến cho cô một ly sữa, cô cầm lấy và uống như một người bình thường.

Trước sự kiện hiển nhiên đó, bác sĩ Alexis Carrel đành chấp nhận:

- Một hiện tượng bất ngờ – không thể nào xảy ra – đã thực sự xảy ra!

Từ sau phép lạ tại Lộ Đức năm 1903 đó, bác sĩ Alexis Carrel từ từ trở về với Đức Tin Công Giáo và qua đời vào năm 1944.

Lúc sinh thời, bác sĩ Alexis Carrel đã tiến cao trên đài danh vọng, đã lãnh giải thưởng Nobel y khoa năm 1912. Nhưng khi chết, ông đã tắt thở trong Đức Tin đơn sơ của một đứa trẻ. Quả thật, hạnh phúc thay người có Đức Tin!

Albert Bessières, ”Le Voyageur de Lourdes: ALEXIS CARREL”, Collection Convertis du XXè Siècle, Belgique, 1952
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt


+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI TỘI LỖI, VÀ ĐỪNG PHẠM TỘI NỮA KHI CÒN CƠ HỘI TRÊN THẾ GIAN NÀY
Related Posts with Thumbnails

Tìm kiếm trên website MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Loading