SỰ NGẮN NGỦI CỦA ÐỜI NGƯỜI |
Jacques Bénigne Bossuet (1627-1704) |
Ðời người không đáng là bao, và tất cả những gì có cùng có hạn đều chẳng đáng là bao. Sẽ đến lúc mà một người xem ra rất lớn lao đối với ta sẽ không còn nữa, lúc mà người ấy sẽ như một em bé chưa được sinh ra, lúc mà người ấy không còn nữa. Người ta có sống trên đời này lâu dài bao nhiêu, cho đi một nghìn năm, thì rồi cũng đến ngày hết hạn. Chỉ có thời gian tôi sống mới làm cho tôi khác với những gì chưa xuất hiện bao giờ, nhưng cái khác biết này cũng quá nhỏ nhoi, vì cuối cùng tôi cũng sẽ hòa tan vào cái gì không có, và rồi sẽ đến ngày chẳng những hình như tôi đã có, và tôi có sống được bao lâu đi nữa thì cũng chẳng đáng kể là bao, vì tôi sẽ không còn nữa. Tôi bước vào cuộc đời với định luật là phải ra khỏi đời này, tôi đến đóng vai trò của tôi, tôi đến để trình diễn như mọi người: rồi sau đó, tôi phải biến đi. Tôi đã thấy nhiều người đi qua trước tôi, rồi những người khác sẽ thấy tôi đi qua; rồi chính những người này cũng hiến cho những người đến sau họ một cảnh tượng tương tự; và cuối cùng tất cả mọi người đều sẽ đến hoà mình trong cái hư vô. Cuộc đời tôi sống được tám mươi tuổi là cùng; cho được một trăm tuổi đi nữa, đã có một lúc tôi chưa có! Và đến một lúc tôi sẽ không còn nữa! Và thời gian tôi sống, tôi chiếm một chỗ quá ít ỏi trong vực thẳm vĩ đại của thời gian! Tôi chẳng là gì cả; cái khoảng thời gian ngắn ngủi đó không thể làm cho tôi khác biệt nhiều với cái hư vô mà tôi phải đi đến. Tôi đã đến trong cuộc đời để cho thêm một con số, mà rồi người ta cũng chẳng biết làm gì với tôi; và vở hài kịch sẽ được diễn xuất chẳng kém hơn, một khi tôi sẽ trở vào hậu trường sân khấu. Vai trò tôi phải diễn xuất thì quá nhỏ nhoi trên đời này, và quá ít quan trọng đến nỗi, khi tôi nhìn kỹ, tôi có cảm tưởng là một giấc mộng đã thấy tôi có ở đây, và tất cả những gì tôi thấy cũng chỉ là điều hão huyền: “Bộ mặt thế gian này đang biến đi.” (1 Cor 7, 9). Ðường đời tôi đi chỉ được tám mươi năm là cùng, và để đi đến đó, tôi phải vượt qua biết bao nhiêu hiểm nguy, biết bao nhiêu bệnh tật, v.v..? Vì đâu mà cuộc hành trình ấy đã không ngừng ở mỗi giây phút? Tôi đã không nhận ra bao nhiêu lần tôi phải ngừng sao? Tôi đã thoát chết ở cuộc gặp gỡ này ở cuộc gặp gỡ nọ: nói tôi thoát chết là nói sai; tôi tránh được hiểm nguy này, nhưng không phải tránh được cái chết: cái chết đang giăng nhiều cạm bẫy đủ loại trước mặt chúng ta; nếu tránh được cạm bẫy này, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy khác; cuối cùng chúng ta phải rơi vào hai cánh tay của thần chết. Giống như tôi trông thấy một cây to bị gió đánh nghiêng ngả, có nhiều lá rụng xuống từng lúc; có những lá cầm cự được lâu hơn, có những lá khác chịu đựng được ít hơn: mà nếu có những lá cầm cự qua được cơn giông tố, thì luôn luôn mùa đông sẽ đến làm cho chúng héo đi và rụng xuống đất, hoặc như trong một cơn bão lớn những người này bất thần bị ngạt thở, những người khác nằm trôi trên mảnh ván chịu buông xuôi theo làn sóng; và lúc mà họ tưởng đã thoát khỏi mọi hiểm nguy, sau khi đã cầm cự được khá lâu, thì một ngọn sóng đẩy họ đập vào một tảng đá ngầm, thế là tan xác. Cũng vậy, một số đông người chạy cùng một con đường đời, chỉ có vài người mới chạy được đến cùng; nhưng sau khi đã tránh được những cuộc tấn công khác nhau của thần chết, đã đến được cuối cuộc hành trình mà họ đã vươn tới giữa biết bao nhiêu nguy hiểm, họ lại gặp ngay thần chết và rút cục ngã quỵ ở cuối hành trình: đời họ vụt tắt như cây nến đã tiêu hao hết chất đốt của nó. Cuộc đời tôi sống được tám mươi năm là cùng; và trong tám mươi năm ấy, có bao nhiêu năm được gọi là đáng kể trong cuộc sống của tôi? Giấc ngủ thật giống như cái chết; thời thơ ấu là cuộc sống của một con vật. Bao nhiêu thời gian của thời thanh xuân, tôi muốn xoá đi? Và khi tôi có tuổi, tôi còn muốn xoá đi bao nhiêu nữa! Thử tính xem tất cả thời gian ấy thu lại còn được cái gì? Vậy tôi sẽ đếm được những gì? Vì tất cả những thứ ấy sẽ không còn nữa. Thời gian mà tôi cảm thấy thoả thích, thời gian mà tôi có được vài danh vọng chăng? Nhưng thời gian ấy đã quá thưa thớt trong cuộc sống của tôi biết bao! Nó tựa như những cái đinh được đóng vào một bức tường dài, trong một khoảng tường nào đó: có lẽ bạn nói là những cái đinh đó chiếm nhiều chỗ quá, thu nhặt lại thì chúng chẳng chiếm được cả lòng bàn tay. Nếu tôi loại đi khỏi đời tôi giấc ngủ, các bệnh tật, các nỗi lo âu và bây giờ tôi thử tính tất cả thời gian mà tôi có được vài thoả thích hoặc vài danh vọng, thì cái thời gian đó đưa tới được cái gì? Nhưng các thoả thích ấy, tôi có được cùng một lúc không? Tôi được nó có khác gì hơn là những thoả thích vụn vặt? Nhưng tôi có được những thoả thích ấy mà không vướng một lo âu nào, và nếu có lo âu, tôi sẽ đặt những thoả thích ấy vào thời gian mà tôi quý trọng hay vào thời gian mà tôi không kể đến? Và khi đã không có được thời gian ấy cùng một lúc thì ít ra tôi có được thời gian thoả thích ấy tức khắc không? Chẳng phải nỗi lo âu luôn luôn chia tách hai lần thoả thích ra sao? Chẳng phải nỗi lo âu luôn luôn gieo trở ngại để ngăn cản các lần thoả thích không nối liền với nhau sao? Nhưng các thoả thích ấy còn để lại gì cho tôi? Những thú vui chính đáng thì chỉ là một kỷ niệm vô ích; những thú vui bất chính thì lại là một mối ân hận, là một sự ràng buộc dẫn tới hỏa ngục hoặc là phải sám hối, v.v… A! Ta rất có lý mà nói rằng ta sống cho qua thời giờ! Thật vậy, ta sống cho qua thời giờ và ta qua đi với nó! Tất cả con người tôi thu gọn trong một giây lát; và đó là điều phân cách tôi khỏi cái hư vô; giây lát ấy trôi qua, tôi bắt lấy giây lát khác; giây lát này trôi qua sau giây lát khác, tôi nối kết giây lát này với giây lát kia, cố gắng làm cho mình an tâm, mà tôi không nhận thấy rằng những giây lát ấy đang từ từ lôi cuốn tôi đi với chúng, và tôi sẽ thiếu thời gian, chứ không phải thời gian thiếu tôi. Cuộc đời tôi là thế đó; và điều đáng ghê sợ là nó trôi qua đi đối với tôi, chứ trước mặt Chúa, nó vẫn tồn tại. Nhưng sự việc này liên quan đến tôi. Cái gì thuộc về tôi, nhưng cái tôi có tùy thuộc vào thời gian,vì chính bản thân tôi cũng tuỳ thuộc vào thời gian; nhưng cái tôi có thì thuộc về Chúa, trước khi tôi xuất hiện; nó tùy thuộc Thiên Chúa trước khi tùy thuộc thời gian; thời gian không thể lôi nó ra từ thế giới của mình, vì thế giới ấy ở trên thời gian; đối với Chúa, những cái đó vẫn tồn tại và được kể vào kho tàng của Người. Ðiều gì tôi sẽ đặt vào trong kho tàng ấy, tôi sẽ tìm thấy lại, điều gì tôi làm trong thời gian, sẽ từ thời gian mà đi vào vĩnh hằng; vì lẽ rằng thời gian nằm trong cái vĩnh hằng và dưới cái vĩnh hằng, cũng dẫn đến vĩnh hằng. Tôi chỉ được hưởng những giây lát của cuộc sống này trong lúc nó trôi qua; khi chúng trôi qua rồi, tôi phải chịu trách nhiệm như thể chúng vẫn còn tồn tại. Nói như vậy chưa đủ các giây lát ấy đã qua, tôi không còn nghĩ đến nữa. Chúng đã trôi qua, quả thế, đối với tôi, nhưng không phải thế, đối với Thiên Chúa; và Người sẽ đòi tôi phải trả lẽ. Vậy, hỡi linh hồn tôi, cuộc đời này có phải là cái gì đáng kể lắm không? Và nếu cuộc đời này chẳng đáng kể là bao, vì nó sẽ qua đi, thì những thú vui không kéo dài cả đời sống và sẽ qua đi trong chốc lát có nghĩa lý gì? Nó có đáng để ta bị đoạ đày không? Nó có đáng để ta bỏ ra bao nhiêu công lao vất vả, để ta tỏ bày bao sự khoe khoang không? Lạy Chúa, con hết lòng quyết tâm suy nghĩ về cái chết, mỗi ngày, trước mặt Chúa, ít nữa trước khi đi ngủ và lúc mới thức dậy. Với suy tưởng này: “Tôi có ít thời gian, nhưng lại có nhiều điều phải làm, có thể tôi còn có ít thời gian hơn tôi tưởng,” tôi sẽ ngợi ca Chúa đã lôi kéo tôi ra nơi đây để nghĩ đến việc ăn năn thống hối, và tôi sẽ thu xếp công việc của tôi, để nghĩ đến việc xưng tội, đến những việc đạo đức cách nghiêm chỉnh, với nhiều can đảm và cần mẫn; suy nghĩ không phải đến những gì qua đi, mà đến những gì còn tồn tại. |
SỰ NGẮN NGỦI CỦA ÐỜI NGƯỜI
CHỐN /CÕI /LỬA ĐỜI ĐỜI (Mt 25: 41-46)
Chết là về cõi sống
GIA ĐÌNH ĐÍCH THỰC
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++GIA ĐÌNH ĐÍCH THỰCGia đình, hai tiếng thân thương, gần gũi.Gia đình, nơi diễn tả tình yêu, hạnh phúc, chia sẻ và đồng hành.Gia đình, nơi để phấn đấu, vượt qua, dẹp ý riêng.Muốn duy trì và phát triển, mỗi thành viên phải loại bỏ ích kỷ, thu góp cho riêng mình. Vì ích kỷ là đường dẫn đến hủy diệt.Từ gia đình máu huyết, ta được mời gọi sống tinh thần gia đình của Giáo hội Chúa, mà Ngài là Cha, tất cả đều là anh em.Chỉ trong tinh thần gia đình, người ta mới dễ cộng tác, hy sinh, phục vụ, yêu thương, bao dung và tha thứ cho nhau.Thiên Chúa không tạo dựng đất nước này hay quốc gia nọ, nhưng Ngài xây dựng một gia đình thực sự, gia đình hạnh phúc.Đức Chúa và nguyên tổGia đình mẫu này thật tuyệt vời. Chiều chiều, Đức Chúa và ông bà đi dạo, trò truyện, tâm sự trong vườn địa đàng. Đức Chúa không nghĩ đến mình, ông bà cũng luôn nghĩ đến Chúa. Tất cả đều được hả hê ơn Chúa.Nhưng từ khi ông bà đi xây dựng, tích góp cho riêng mình, tách dần khỏi tình yêu Chúa, thì bắt đầu khủng hoảng, thất bại, đổ vỡ, chống đối, chết chóc.Đức Giêsu và các tông đồĐức Giêsu đến để xây dựng lại gia đình của Ngài, mà thuở ban đầu đã bị đổ vỡ. Dấn thấn, hy sinh, từ bỏ là điều được Ngài nghiêm chỉnh tuân thủ.Ngài không bị đóng khung ở làng này làng kia, trong hay ngoài tôn giáo, mà mọi nơi mọi chốn và mọi người đều là tầm nhắm để Ngài gặp gỡ, mời gọi, lôi kéo vào sống trong gia đình tình thương cùa Ngài.Ngài tìm cách phá tan mọi tường rào khiến con người không đến được với nhau do cục bộ, truyền thống, văn hóa, giàu nghèo…Các tông đồ nói: Thầy coi xem, có nhóm không theo chúng ta, mà họ theo ông Gioan Tẩy Giả. Đức Giêsu đáp: Ai không chống ta là ủng hộ ta, là đi theo ta.Các ông thể hiển thói ích kỷ, thu gom cho riêng nhóm của mình, còn Đức Giêsu thì không.Người Samari đã cứu chữa một người khốn khổ nằm sắp chết bên vệ đường. Họ vui, nạn nhân được cứu. Tình thương của họ không bị trói chặt lại trong người thân hay người lạ. Họ được lớn lên nhờ tình thương.Đang khi đó, những kinh sư, biệt phái, Pharisêu làm ngơ, ích kỷ, nghĩ cho bản thân, cho tôn giáo, cho truyền thống mà bỏ rơi đồng loại. Họ bị héo khô trong ích kỷ.Sau khi Phục sinh, các tông đồ cũng bắt đầu tan tác, lo tìm cuộc sống cho riêng mình, tình hình dường như đi vào bế tắc. Nhưng khi Chúa Giêsu xuất hiện, ôn lại cho họ tinh thần gia đình là phải hy sinh, nên họ đã đứng dậy, vững bước đi xây dựng Giáo hội Chúa.Không bị giới hạn trong Giêrusalem, họ đã ra đi khắp nơi gần xa, lương giáo khác nhau. Và nơi họ đặt chân, lại trở thành nhà, thành gia đình mới. Đó là các cộng đoàn đức tin.Giáo hội hôm nayĐức Giáo hoàng Bênêđictô những ngày vừa qua đã lên tiếng kêu gọi thế giới hãy tìm ra cách tối ưu nhất giúp cho nhiều triệu người có lương thực, không bị chết đói. Ngài nói rằng không phải thế giới hết tài nguyên thiên nhiên, càng không phải vì thiếu lương thực, nhưng vì chưa đưa ra cách giải quyết hữu ích, tốt nhất mà thôi. Vì vậy mà chết đói vẫn kéo dài, còn chỗ dư thừa thì vẫn cứ đổ đi, đổ ra biển.Ngài sống tinh
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Quyền năng của Thiên Chúa vô biên vô tận, các nhà khoa học không bao giờ hiểu hết được...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Tin vào quyền năng của Thiên Chúa
Tin Mừng Lc 17, 5-6
5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con."6 Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.
Suy niệm
Người Kitô hữu chẳng nghi ngờ gì về quyền năng cao cả của Thiên Chúa nhưng lại chẳng mấy khi dám để cho Thiên Chúa thể hiện quyền năng của Ngài. Lý do là vì Thiên Chúa quyền năng lại chẳng hề muốn thể hiện quyền năng của Ngài một cách khơi khơi, một cách chinh phục hay bất cứ cách nào khác. . . Ngài chỉ muốn thể hiện quyền năng trong tình yêu và vì tình yêu. Chính vì thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể chỉ đón nhận lại quyền năng đã có từ trước của Ngài sau khi đã đi trọn con đường yêu thương, yêu thương đến độ tự huỷ :
"Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu (Pl 2, 6-9).
Có thể nói, trong cuộc sống nhân loại, quyền năng là một dụng cụ hết sức cần thiết nhưng cũng hết sức nguy hiểm. Quyền năng có thể giải quyết nhiều vấn đề, nhưng quyền năng lại cũng bộc lộ nhiều nguy cơ phá huỷ nét chân chính của con người, khi mà quyền năng trở thành quyền hành thống trị, thành quyền lực khuất phục, thành quyền bính bên trên đòi hỏi người khác. Do đó, quyền năng phải được gắn liền với tình yêu; quyền năng trọn vẹn cũng phải được thấm nhuần với tình yêu trọn vẹn, tình yêu hy sinh chính mạng sống của mình cho bạn hữu. Chỉ sau khi đã thể hiện một tình yêu trọn vẹn đến độ dám trút bỏ quyền năng và vinh quang, thì khi ấy Đức Giêsu mới khẳng định quyền năng tuyệt đối của Ngài, theo cách đặc biệt của Thiên Chúa:
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Xc. Mt 28, 18t).
Quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng được trao ban cho đức Giêsu chỉ có thể là quyền năng của tình yêu mà thôi. Do đó, Đức Giêsu đã chẳng dùng quyền năng của Ngài một cách khơi khơi hoặc một cách thống trị, nhưng Ngài mời gọi con người thể hiện lòng tin vào Ngài. Chỉ trong mối tương quan của lòng tin, khi con người biết tin tưởng một cách tự nguyện, trông cậy và yêu mến Thiên Chúa thì Ngài mới thực hiện quyền năng đích thực. Quyền năng của Thiên Chúa nhằm nâng con người lên địa vị con cái tự do của Thiên Chúa chứ không phải đè bẹp con người trong sự khiếp sợ và làm hèn hạ con người trong thái độ xin xỏ.
Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện những phép lạ để chữa lành những khổ đau của con người, nhưng Ngài luôn đợi chờ lòng tin; và người ta có thể nói tới “sức mạnh của niềm tin”, không phải như một phương cách để chiếm hữu quyền năng của Thiên Chúa, mà như một tương quan chân chính mở đường cho quyền năng yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện. Thiên Chúa sẽ thể hiện quyền năng của Ngài nhưng không phải để thống trị mà là để gia tăng lòng tin, cậy, mến của con người đối với Ngài và giúp con người tìm thấy niềm hạnh phúc sâu xa chân chính, hạnh phúc có Chúa. Do đó, điều quan trọng đối với người Kitô hữu không phải là cầu xin phép lạ, nhưng là xin thêm niềm tin :
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5)
Ngoài con đường tin-cậy-mến, người ta sẽ bị đè bẹp khi đối diện với quyền năng của Thiên Chúa; và chính Thiên Chúa, khi thể hiện quyền năng ngoài con đường yêu thương, cũng sẽ tự hạ giá chính Ngài. Cánh cửa để đi vào quyền năng của Thiên Chúa là chính là lòng tin, hay lòng cậy trông và yêu mến đối với Thiên Chúa.
"Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rể lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17, 6).
Trong cuộc đời các vị thánh, chúng ta thường thấy các phép lạ được thực hiện một cách “dễ dàng” như thể các thánh nắm giữ được quyền năng của chính Thiên Chúa. Thật ra, tính cách “dễ dàng” như thế không diễn tả năng lực của chính các ngài, mà bộc lộ lòng tin của các ngài vào quyền năng của Thiên Chúa. Trong tình yêu, các Ngài có thể tin chắc Thiên Chúa chiều ý của mình; và trên nẻo đường đã thông thoáng trong mối tương quan tin-cậy-mến của các thánh với Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao ban một cách “đơn giản”.
“Xem quả thì biết cây”, thánh Martin làm nhiều phép lạ ngay khi còn sống, và Martin thực hiện những phép lạ ấy một cách đơn giản, hồn nhiên; bởi vì niềm tin của Martin vào quyền năng của Chúa cũng đơn giản và hồn nhiên. Đó chính là “hoa trái” để chúng ta nhận ra được phẩm chất của “cây đức tin” trong tâm hồn thánh Martin.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Quyền năng của Thiên Chúa vô biên vô tận, các nhà khoa học không bao giờ hiểu hết được...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Xoá đói giảm nghèo
“Phúc cho ai lắng nghe và thi hành Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Người nào nghe và sống theo Lời Chúa là ngưòi có phúc nhất truớc mặt Thiên Chúa. Người đời ham thích được giàu có, sống lâu, khỏe mạnh, nổi tiếng và cho rằng hạnh phúc là phải đạt được những điều đó. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều người đã có đuợc những điều trên mà vẫn không hạnh phúc. Có những tỷ phú, triệu phú, kinh tế gia, chinh trị gia, tài tử, nghệ sĩ thuộc loại giàu có tiếng tăm nhưng vẫn chán đời thậm chí còn nghĩ đến chuyện tự tử.
Khi Chúa Giêsu mở miệng dạy chúng ta về những mối phúc nghèo, đói, khóc, và bị ghét, Ngài không có ý chúc phúc cho sự nghèo, đói, khóc và bị ghét. Ý chính của Ngài muốn dạy là khi chúng ta vì vâng nghe và sống theo Lời Chúa dạy mà phải nghèo đi, đói hơn, khóc thêm, không được khen, thì việc sống đạo như thế thật là can đảm và có phúc. Ngược lại, những người giàu không kính Chúa yêu người không sống đức ái chia sẻ nên cứ tiếp tục giàu về vật chật trong khi lại nghèo khó về tinh thần thì thật là khốn.
Chỉ có tác giả Luca mới có câu chuyện cuả hai anh phú hộ giàu có không sống đức ái được Chúa cho là đồ dại khờ, đồ vô phúc. Người nghèo Lazarô ăn xin ngay bên cổng nhà mà cũng không nhận được một chút lòng thương xót. Khốn cho kẻ giàu nào có tinh thần hẹp hòi ích kỷ như hai anh phú hộ trên. Nghèo như Lazarô khiêm nhường chấp nhận số phận và không than trách ganh ti với ai. Nghèo như Chúa Giêsu vì lo cho nhu cầu thân xác và tâm linh của người khác mà phải mất ăn, mất ngủ, mất sức, mất tiền, mất mặt và ngay cả mất mạng thì lại là một ân phúc truớc mặt Thiên Chúa
Thật ra bất cứ ai dù giàu dù nghèo cũng được Chúa thương và muốn cứu. Cả hai đều đưọc kêu gọi để sống bác ái trong cuộc đời này. Người giàu thì giúp đỡ và chia sẻ trong sự giàu có của họ trong khi kẻ nghèo cũng phải thi hành nghĩa vụ cho đi và giúp đỡ trong khả năng hạn hẹp của mình. Một gười nghèo không có đồng xu dính túi cũng được kêu gọi để cầu nguyện và đóng góp một tay cho những việc bác ái trong cộng đòan. Chúa nhìn thấu suốt tấm lòng ta nên gíá trị giúp đỡ dù nhỏ nhoi cũng vẫn là món qùa lớn. “Lá lành đùm lá rách; lá rách đùm lá tả tơi; lá tả tơi đùm lá te tua; lá te tua đùm lá tan tác…” Cứ như vậy thì trên thế gian này luôn có những đường dây bác ái chằng chịt nối kết nước này với nước kia, thành phố này với thành phố khác, con người này với con người kia. Thế giới lúc nào cũng có những con người nghèo và khổ hơn tôi. Đáng thương hơn nữa là lúc nào cũng có những người tội lỗi và vắng Chúa trong cuộc sống khốn nạn hơn tôi nhiều.
Những sợi dây bác ái liên kết ràng buộc giữa người giàu có và nghèo khó, người thánh thiện và tội lỗi, người có Chúa và người vắng Chúa chính là những nét đẹp của thế gian giành cho Thiên Chúa. Nếu trên thế giới này ai cũng giàu có và không còn những hành động chia sẻ giúp đỡ nữa; không còn những chuyến tàu cứu trợ, những nhà hoạt động bác ái hy sinh, những tấm gương yêu thương phục vụ giống Chúa thì thiết tưởng đó chưa phải là thế giới lý tưởng của Chúa mong muốn. Sự thật là thế giới sẽ luôn có người giàu kẻ nghèo giống như lời Chúa Giêsu nói, “Kẻ nghèo thì luôn có đó, nhưng Ta thì không” (Mt 26,11).
Những con người và đất nước tốt lành lo sao cho xóa đói giảm nghèo trong khi những người giàu và nuớc giàu thì lo sao cho dân chúng giàu hơn. Điều đó tốt nhưng đối với người của Chúa, trước hết phải làm sao cho giáo dân biết sống đức ái trước cái đã. Chúa muốn con người ta có đức ái nghĩa là có Chúa và có những hành động yêu thương như Chúa.
Lương thực hằng ngày của người có phúc phải là Lời Chúa và Thánh Thể. Nhờ đó, người của Chúa sẽ sống bác ái đúng ý Chúa. Như vậy thì lời cầu nguyện trước hết của tôi cho thế giới không chỉ là xin sao cho xóa đói giảm nghèo, nhưng là cho mọi ngừơi nhận bíết Tin Mừng của Chúa. Chẳng lạ gì Chúa Giêsu thường giảng Tin Mừng trước rồi mới cho dân chúng ăn sau. Ngài cũng sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng trước rồi mới đến rửa tội sau (Mt 28,19).
Cách xoá đói giảm nghèo lý tưởng nhất là bằng đủ mọi cách, tôi phải cho người khác đón nhận đuợc Tin Mừng cứu độ của Chúa truớc.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Người Kitô hữu theo lối nhìn mới
I. Lối nhìn cũ: Thiên Chúa ở ngoài ta
1. Người Kitô hữu – con loại suy
Một cuộc đối thoại ngắn
Xin anh nói rõ hơn về thiên chức “con Thiên Chúa” nơi Kitô hữu.
Tuy “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa,” nhưng vẫn không thể chiếm được vị thế độc tôn như Chúa Giêsu, Con chí ái và độc nhất của Chúa Cha. Cùng lắm, “chúng ta sẽ nên giống như Người” mà thôi. Nói khác, chúng ta được tham dự vào tước vị và bản tính Con Thiên Chúa. Ðiều này càng xác quyết chúng ta là con Thiên Chúa theo nghĩa loại suy.
Nói theo nghĩa loại suy tức là nói theo kiến thức của nhân loại, cái nhìn của nhân loại. Chỉ có kiến thức con người mới phân biệt con chí ái với địa vị độc tôn còn chúng ta cùng lắm chỉ là con loại suy. Nói cách khác chúng ta là con ảo (virtual children) – con được suy ra trên lý thuyết – chứ không có thực.
Vả lại nếu chỉ mình Đức Giêsu là con chí ái còn tất cả loại người là con lọai suy thì tình yêu Chúa Cha quá nhỏ bé - nhỏ hơn nắm tay – Người yêu Giêsu, con chí ái của Người còn thừa bao nhiêu Người chia cho hàng chục tỷ con người lúc nhúc dưới cõi trần gian này..Thêm vào đó, Người còn yêu thương một số người này hơn những người kia như thói thường tình thế gian – Người yêu thương các thánh, hàng giám mục, linh muc, tu sĩ hơn giáo dân..hơn những kẻ tội lỗi..
Hóa ra Tình yêu Chúa không vô biên chút nào!
Rõ ràng là “con loại suy” chẳng ổn chút nào!!
2. Người Kitô hữu: Một thần nhân kỳ cục
Giáo hội đã dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu là đầu, còn chúng ta là chi thể.
Thế mà lại có cảnh kỳ cục như sau:
Đầu là con chí ái độc nhất, còn thân mình thì lại là con loại suy.
Suy luận này sẽ đưa tới tình trạng: người kitô hữu toàn là những kẻ cụt đầu!!! bởi lẽ Đầu và thân mình đâu có dính dáng gì với nhau!!
Rõ ràng là “con loại suy” chẳng ổn chút nào!!
3. Người Kitô hữu – đồng hình đồng dạng ảo
Lại một cuộc đối thoại ngắn khác:
Thế còn vấn đề đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu thì sao?
Chúng ta trở nên "đồng hình đồng dạng", chứ không phải y hệt Chúa Giêsu
Rõ ràng là cũng từ ý niệm phận biệt Con Chí Ái và Con Loại Suy, tất nhiên sẽ dẫn tới một trường hợp ảo khác: "đồng hình đồng dạng", chứ không phải y hệt. Và nếu cứ như thế chúng ta sẽ có hàng chục hình thức ảo khác!!!
Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Nói vậy chứ không phải vậy, vì Chúa khác tôi khác!! Chúa sống trong tôi cũng chỉ là ảo mà thôi chứ không phải thực sự như vậy. Phaolô mà sống lại chắc cũng phải khóc thét lên vì những kiểu suy luận méo mó như thế này!!!
Và vấn đề ngay từ bây giờ, chúng ta được Phục sinh – cũng là Phục sinh ảo nốt. Vì với tư cách con loại suy chứ không phải con chí ái, và đồng hình đồng dạng ảo, tất nhiên không thể cảm nghiệm được niềm vui phục sinh đích thức
Nói cho cùng, Phục sinh này cũng chỉ là Phục sinh ảo, Phục sinh loại suy.
Tóm lại Loại suy theo kiểu Thần học đã dẫn chúng ta tới ngõ cụt!! tất cả đều là ảo!!
4. Người Kitô hữu hình thức: con người phàm hèn tội lỗi.
Không biết từ bao giờ, có lẽ từ lâu lắm rồi.. chúng ta đã được in vào đầu tư tưởng nguy hại này: “chúng ta là vật phàm hèn” khiến cho cuộc sống đạo của mình cứ mãi nửa vời, là là mặt đất, không thể vươn lên tầm cao được.
Vẫn biết cứ mỗi mùa chay tới, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta khi chúng ta chịu tro: “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi..một mai người sẽ trở về bụi tro!! ”
Tại sao vậy?
Vì thấy chúng ta chỉ lo cho con người thân xác của mình, chỉ sống với cái tôi to tướng của mình. Điều gì liên quan tới tôi đều quan trọng..Tôi phải được mọi người biết tới. Cái tôi mãi quay cuồng trong cơn lốc: tình, tiền, tài, danh vọng….nên Giáo Hội mới nhắc nhở để chúng ta có dịp vượt qua con người thân xác mà khám phá ra con người đích thực của mình.
Nhưng thực đáng tiếc, chúng ta thường đồng hóa thân xác với linh hồn:
Thân xác phàm hèn, linh hồn cũng phàm hèn.
Thân xác yếu đuối, linh hồn cũng yếu đuối.
Thân xác tội lỗi, linh hồn cũng tội lỗi.
Hóa ra cuối cùng tuy mang danh là Kitô hữu = christian = người thuộc về Đức Kitô, người mang tính cách của đức Kitô..nhưng lại rất xa lạ lới Đức Kitô ngay trong cuộc sống đời thường của mình.
Có thể nói vì mang tâm thức con người yếu hèn, tối lỗi..nên tuy mang tiếng là Kitô hữu nhưng cách sống lại giống y như người chẳng hề biết chúa là ai.
Tắt một lời, đây là người kitô hữu hình thức chính hiệu.
II. Lối nhìn mới: Thiên Chúa sống ngay trong lòng mình
Vì nhận ra Thiên Chúa sống ngay trong lòng mình, chúng ta khám phá ra con người Kitô hữu đích thực: chúng ta cũng đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô với ba khuôn mặt giống Đức Giêsu như đúc:
1. Chúng ta là con yêu dấu của Cha
Ngày trước tôi cứ tưởng mình là vật mọn phàm hèn trước mặt Chúa cao sang thánh thiện.
Hóa ra hoàn toàn không phải vậy. Tôi cũng là con yêu dấu của Cha dựa vào sự xuất phát của tôi: Tôi được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. (Ga 1:13). Bề ngoài tôi là con ông X bà Y, nhưng cha mẹ tôi chỉ là dụng cụ để Ngài sinh ra tôi ra trên chốn hồng trần này. Vì thế người Cha đích thực của tôi chính là Chúa Cha. Cha mẹ tôi không hề hay biết giây phút tôi xuất hiện trong lòng mẹ, không biết tôi sẽ là trai hay gái, không biết tính tình, tương lai tôi sẽ ra sao. Nhưng Chúa, Ngài biết hết: Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân."(Gr 1:5). Không những Ngài biết giây phút xuất hiện của tôi mà Ngài còn thánh hoá tôi và trao cho tôi một sứ mạng rõ ràng: làm ngôn sứ của Ngài cho muôn dân.
Thánh Gioan còn khẳng định: Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. (1Ga 3:1).
Thánh Gioan đã xác quyết chúng ta thực sự là con Thiên Chúa; thế mà trước đây chúng tôi cứ tưởng là tôi tớ hạng bét ngay trong nhà Cha của mình. Thật là mọt sự hiểu lầm chết người!!!
2. Chúng ta là đàn em của Anh cả Giêsu
Dù đã được trình bày trong bài Đức Giêsu Kitô, nhưng những câu Kinh Thánh đó ngọt ngào quá đến nỗi, chúng ta nên vui mừng nhắc lại để niềm vui chúng ta được trọn vẹn hơn: Chính Đức Giêsu đã xác nhận:"Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em” (Ga 20:17).
Một thời gian sau, Thánh Phao-lô đã khám phá vai trò trưởng tử của Anh Cả Giêsu và tất cả đều cùng phát xuất từ một Chúa Cha qua lời chia sẻ đầy chân tình: : Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là các em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho các em tất cả được hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Bởi thế, Người đã phải nên giống các em mình về mọi phương diện, (Dt 2:11,12,17) - Dịch giả An-sơn Vị đã dùng từ các em thay cho từ anh em cho hợp với tâm tình Việt nam và mạch văn: Trưởng tử - Anh Cả đối với các em.
Thêm vào đó, thực là hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết rằng từ muôn thủa, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta và nhất là chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước, Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. (Rm 8:28-29).
Thế là từ khám phá thú vị này, tương quan giữa chúng ta và Anh cả Giêsu đã mang màu sắc tình cảm gần gũi hơn, đầm ấm hơn. Chúng ta có thể tha hồ mà vui vẻ thổ lộ tâm tình. Đặc biệt là quyết tâm sống giống như Anh cả Giêsu trong tâm tưởng của người con yêu dấu với Chúa Cha yêu thương ngay trong lòng mình.
3. Chúng ta sống kết hợp với Chúa trong Thánh Thần
Từ khi nhận ra mình là con yêu dấu của Chúa, là đàn em của anh cả Giêsu, chúng ta mới có thể mở mắt ra và nhìn Theo lối nhìn mới toàn bộ cuộc sống đời Kitô hữu của mình.
Trước hết, trở lại vấn đề căn bản của đời sống tâm linh: Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. (2Tm 1:7). Đây là nền tảng quan trọng trong đời sống tâm linh Kitô hữu. Thực vậy, giống như Anh cả Giêsu, chúng ta cũng được tràn đầy Thánh Thần. Chính Thánh Thần này là nguồn sức mạnh, tình thương và tự chủ. Thôi nhé, từ nay, giã từ tư tưởng bi quan: Tôi là vật phàm hèn. Tôi xấu xa tội lỗi. Tôi chẳng đáng Chúa thương. Tôi chẳng đáng Chúa ngự vào lòng (dù Ngài đã và đang sống trong ta ngay từ khi ta được hình thành trong lòng mẹ!!)
Khi chịu phép Rửa: Chúng ta đều đã chịu phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.(1Cr 12:13). Thế mà trước đây chúng tôi chẳng hề ý thức một chút nào về Thần Khí tràn đầy tâm hồn mình. Chúng tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng phép Rửa giống như một nghi thức gia nhập đạo công giáo. Được ghi tên vào sổ Rửa tội, lập tức tôi trở thành người Kitô hữu - một người Kitô hữu hình thức. Chính vì thế dù chúng tôi tin rằng đã khỏi tội nguyên tổ, nhưng chúng ta vẫn cảm thấy yếu đuối, lòng xiêu xiêu dễ hướng về điều xấu và sa ngã một cách dễ dàng trước bất cứ một cám dỗ nào.
Lớn lên chút nữa, khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta được dịp xác tín rằng Thánh Thần là nguồn sức mạnh toàn năng. nhờ sống trong Ngài, con người nội tâm của chúng ta trở nên vững vàng hơn: Nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. (Ep 3:16).
Thêm vào đó, thánh Phao-lô còn vui mừng chia sẻ: Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ,…19 đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực. (Ep 1:18-19).
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta cũng được liên kết với nhau nên một trong Chúa: Anh em biết Thánh Thần, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.(Ga 14:17). Thật vậy, … chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.(Ep 2:18).
Nếu chúng ta sống kết hợp với Cha trong Thần Khí của Ngài ngày này qua ngày khác thì chắc chắn tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ cảm nghiệm được như anh cả Giêsu đã từng tuyên bồ: “Tôi và Cha tôi là MỘT”
Tóm lại, con người Kitô hữu đích thực của chúng ta được sinh ra bởi chính Thiên Chúa, giống hình ảnh của Ngài, là đàn em của Anh cả Giêsu. Noi gương Trưởng tử Giêsu, chúng ta sống nhờ Thánh Thần - sức sống thần linh của Cha, sức mạnh toàn năng của Cha - để tất cả nên một như Chúa Cha và Anh cả Giêsu là một.
Nói như thế không có nghĩa là chúng ta trở thành thánh trong chớp mắt, làm người cõi trên, suốt ngày nghĩ chuyện trên trời; còn chuyện trần gian là đồ bỏ như rác rưởi, sao cũng được, bất cần. Hoàn toàn không phải vậy, người Kitô hữu phải bắt chước Anh cả Giêsu nhập thế, sống với đời, hoà mình với anh em, mang niềm vui, hạnh phúc đến cho những người khác tùy theo khả năng, tùy theo môi trường của mình. Chính vì thế, con người Kitô hữu không những là một con người tâm linh sống động, mà còn là một con người trần thế với tất cả tình cảm nhân loại như những người khác: buồn, vui, giận, thương…Tuy nhiên người Kitô hữu biết làm chủ tình cảm, tư tưởng của mình nhờ sức mạnh Thần Khí Thiên Chúa ngay trong tâm mình.
Ta có thể kết luận bằng những Lời Chúa tuyệt vời sau đây:
Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu. (Ep 4:15).
Sống theo sự thật chính là sống theo Thần Khí, nhờ đó chúng ta sẽ sống đời Kitô hữu thật đồi dào, bình an, hạnh phúc:
Như vậy, anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa. (Ep 3:19)
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Sống khó nghèo hay khó sống nghèo?
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc, 6, 20), Trong Bài Giảng Trên Núi Đức Giêsu đã ban lời chúc phúc này cho tất cả các môn đệ và mọi người đi theo Chúa.
Người đã ban một chương trình sống cho người Kitô hữu, một chương trình mà theo bản tính tự nhiên của con người thì khó mà chấp nhận (vì nó đòi hỏi chúng ta phải biết hoàn toàn phó thác cậy trông vào sự quan phòng đầy yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa). Thật vậy, nếu chúng ta không có một tình yêu của Chúa trong tâm hồn mình thì chúng ta không thể nào sống và thi hành được chương trình này và Giáo hội đã gọi đó là “Hiến Chương Nước Trời”, mà theo cái nhìn chung của nhiều người ngày nay thì khi nói đến tinh thần sống khó nghèo là người ta cứ nghĩ là điều này chỉ dành cho các bậc tu hành sống ba lời khuyên của Tin Mừng, chứ không phải dành cho người giáo dân. Chúng ta cũng nên biết rằng, vào ngày đó, khi Chúa Giêsu trao ban lời chúc phúc này thì đâu đã có các dòng tu, đâu có hàng giáo sĩ, tu sĩ mà chỉ có các dân chúng và các môn đệ của Người, mà các môn đệ cũng là những người dân sống bậc gia đình như chúng ta. Như thế, lời chúc phúc của Chúa Giêsu trao ban cho hết thảy mọi người, cho bạn và cho tôi. Vậy bạn và tôi đã có những tâm tình nào để đón nhận lời chúc phúc này của Thiên Chúa?
Cơm, áo, gạo, tiền xoay vòng xoay,
Ưu tư mệt mỏi suốt đêm ngày.
Tiện nghi vật chất đòi ưu thế,
Văn minh hưởng thụ say mê say.
Hầu hết người giáo dân chúng ta hằng ngày phải đối diện với những chuyện cơm, áo, gạo, tiền biết bao nỗi lao đao, khốn đốn của kiếp người nghèo khổ giữa một xã hội mà hố ngăn cách giữa người giầu và người nghèo ngày càng thêm sâu thẳm, giữa một xã hội lấy tiền bạc, vật chất làm thước đo các giá trị, người nghèo chịu bao cảnh bất công, bóc lột bởi những người chủ giầu có tham lam chỉ biết vơ vét cho mình thật nhiều của cải, còn biết bao nỗi khổ khác nữa mà người nghèo phải cam chịu cảnh thiếu trước hụt sau, cảnh nợ nần chồng chất, vì nghèo mà bị miệt khinh, bị chèn ép và người ta thường nói “có thực mới vực được đạo”, chính vì những khó khăn, thiếu thốn trước mắt đã làm cho nhiều người trong chúng ta bị cuốn hút vào vòng xoáy vật chất một cách mãnh liệt đến nỗi làm cho nhiều người quên đi giá trị đích thực của Tin Mừng là sự sống vĩnh cửu, và như con thiêu thân, nhiều người chỉ biết lao vào cơn lốc chiếm đoạt và hưởng thụ.
Vậy lời chúc phúc của Chúa Giêsu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” liệu có còn hấp dẫn với con người ngày nay? Có phải chăng Chúa Giêsu muốn chúng ta phải đương đầu với thế lực của vật chất, tiền bạc? Hơn nữa thật lòng mà nói, trong chúng ta không ai muốn nghèo cả, chúng ta thường làm tất cả những gì có thể để thoát nghèo, thoát đói cơ mà?
Trước hết chúng ta cần phân định rõ rệt về “tinh thần nghèo khó” mà Đức Giêsu đã đề cao và “tình trạng nghèo khổ” đã biến xã hội này, thế giới này thành bể khổ, nước mắt và đau thương, chắc chắn trong chúng ta không ai mong ước sống một “tình trạng khó nghèo” như thế, vì nó sẽ nảy sinh ra trong xã hội những tệ nạn, những bất công và lối sống thiếu tình người. Còn “tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng mà Đức Giêsu đã giảng dạy cho chúng ta nó mang lại cho con người sự siêu thoát, giúp cho con người giữ được thế quân bình trong cuộc sống, giúp cho con người biết dùng của cải mình có một cách hợp tình, hợp lý và đúng cách, biết chia sẻ, biết sống bác ái, biết có trách nhiệm liên đới với người nghèo khổ hơn mình. Chính tinh thần siêu thoát với của cải, tiền bạc, vật chất con người biết sống tinh thần phó thác, cậy trông vào Thiên Chúa, biết đặt trọng tâm, cùng đích đời mình vào nơi Thiên Chúa chứ không cậy dựa vào tiền của hay thế lực trần gian.
Tiếng gọi Tin Mừng ơn sáng soi,
Trần gian quán trọ chẳng học đòi.
Đừng bén rễ sâu vào trần thế,
Tâm tư tín thác hồn thảnh thơi.
Như Chúa Giêsu đã nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa” ( Mc 10, 25 ). Qua câu chuyện chàng thanh niên trong Tin Mừng (Mc 10, 17 – 22) Chàng là người đạo đức đã giữ nghiêm túc các giới răn từ hồi còn bé như: “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”, nghe những lời chàng nói, Chúa Giêsu chạnh lòng thương và mời gọi chàng tiến thêm một bước nữa để đạt được Nước Thiên Chúa: “Hãy đem bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Ta” ( Mc 10, 21 ). Nghe những lời này chàng đã sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi. Chàng thiếu sự cảm thông, thiếu sự chia sẻ, thiếu lòng quãng đại đối với người nghèo, chàng chưa thật sự siêu thoát, lòng chàng còn dính bén đến của cải, chàng muốn đi theo Chúa nhưng lòng chàng đã để cho của cải chế ngự, lôi kéo và bóp nghẹt con tim của chàng, lời mời gọi dấn thân của Thiên Chúa đã bị thất bại nơi tâm hồn chàng và vì ham mê tiền của, nó đã ngăn cản con đường của chàng tiến đến Nước Trời.
Nước Trời đích thực chốn quê hương,
Chúa đã thăng thiên để mở đường.
Dẫn lối ta về, Cha thiên quốc,
Hạnh phúc miên trường dạ khúc thương.
Ơn gọi của người Kitô hữu chúng ta là bước theo dấu chân Chúa Giêsu Kitô đã đi, là được mời gọi nên trọn lành như Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời (Mt 5, 48), chúng ta được mời gọi sống theo tinh thần của Người. Tinh thần nghèo khó của Thiên Chúa là tâm hồn từ bỏ, mời gọi chúng ta biết sống vui vẻ trong hoàn cảnh nghèo khó của mình, dù sống cảnh nghèo khổ, đói rách, xác xơ cũng không làm cho tâm hồn chúng ta bị dày vò, xâu xé thèm khát tiền của, chúng ta không bận tâm đến sự giàu có vật chất, không ghen tỵ với người giầu có tiền của, chúng ta luôn an vui với địa vị của mình, tâm hồn chúng ta thanh thản trong tâm tình phó thác mọi sự đời mình trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.
Nhưng ma quỷ đã gieo rắc vào lòng con người những tham vọng đam mê tiền của, tạo nên những cơn sốt giả tạo, những vinh hoa trần thế làm cho con người ta chỉ biết có tiền, sống vì tiền, chạy đua theo đồng tiền, vơ vét thật nhiều của cải, để đạt được mục đích đen tối của mình, con người đã chà đạp lên nhau gây lên bao cảnh tai ương khốn khổ cho người nghèo, tạo nên mối oán ghét, thù hận, tạo nên một xã hội, một thế giới đau thương đầy hỗn độn.
Hơn nữa, cái nghèo của con người ngày hôm nay không chỉ đơn thuần là nghèo vật chất, tiền bạc, mà còn có cái nghèo về kiến thức, nghèo tinh thần, nghèo lòng quảng đại vì con người đang muốn loại trừ sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời này.
Chính vì nghèo kiến thức làm cho con người trở nên lạc hậu, nghèo lòng quảng đại con người trở nên ích kỷ, nhỏ nhen không biết quan tâm đên tha nhân nghèo khổ, nghèo tinh thần sẽ đưa con người đến những hậu quả tiêu cực, gây thành kiến, gây hiểu lầm trong đối thoại và vì mang chủ nghĩa cá nhân đã làm cho con người chỉ còn biết đến cái “tôi” to đùng của mình. Thực trạng của xã hội ngày nay mà chúng ta đang sống cho thấy rõ nguy hại của lòng tham lam, làm tôi tiền bạc của một số người, lạnh lùng vô cảm trước sự khổ đau của người khác đã tạo lên những tiếng kêu oan ức não lòng của tầng lớp người nghèo, thấp cổ bé họng.
Đời sống còn nhiều cay đắng cay
Chúa ơi! Thêm sức kiếp đọa đày.
Dũng cảm vượt qua ngàn thách đố,
Ái mộ Nước Trời! Vinh phúc thay.
Nhưng tiền bạc, của cải, vật chất cũng có một tầm mức quan trọng trong đời sống của con người sống giữa xã hội nói chung và trong phạm vi tôn giáo nói riêng vì trong nhiều phương diện nó cũng là phương tiện giúp chúng ta đạt được kế hoạch, mục đích của mình. Vì thế khi trao ban mối phúc thứ nhất này chắc chắn Chúa Giêsu không lên án những người giàu có hoặc dạy chúng ta phải khinh chê tiền bạc, vật chất mà Người dạy chúng ta phải có tinh thần nghèo khó để không làm nô lệ cho tiền bạc , không tôn thờ vật chất và mở rộng tâm hồn chúng ta thực thi công bằng và bác ái đối với những người kém may mắn. Đức Giêsu muốn dạy chúng ta phải biết dùng tiền bạc và mọi phương tiện vất chất một cách đúng đắn , đem lại lợi ích cho nhu cầu đời sống của mình và tha nhân và nhất là đem lại điều lợi ích đích thực là tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời., như Người đã dạy các môn đệ: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người , còn các thứ kia ,Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6: 33 -34).
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” là lời chúc phúc cho tất cả những ai biết cậy trông vào Chúa, biết phó thác đời mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đang mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta phải thực sự trở thành Tin Mừng, sẵn sàng làm men, làm muối cho cuộc đời, trở thành niềm hy vọng cho người nghèo khổ. Trong một xã hội và đất nước chúng ta đang sống ngày nay rất cần những chứng nhân loan báo Tin Mừng không phải bằng môi, bằng miệng mà bằng trọn vẹn đời sống tinh thần khó nghèo của Đức Kitô biết chia sẻ những gì mình có cho anh em nghèo khổ hơn mình, biết khao khát tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa và biết chia sẻ sự khao khát ấy đến với anh em.
Và nếu tinh thần khó nghèo theo gương Đức Giêsu Kitô không thấm nhập và được thể hiện trong đời sống của chúng ta để biến cái nghèo của chúng ta trở nên sạch, biến cái rách của chúng ta trở nên thơm, biến chúng ta thành Tin Mừng sống động thì những lời loan báo của chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa.
Vậy đứng trước lời chúc phúc xem ra có vẻ nghịch lý này bạn và tôi có can đảm đón nhận và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong đời sống của mình không?
Sống khó nghèo hay khó sống nghèo? Có lẽ đây là một câu hỏi mà bạn và tôi cần cân nhắc và can đảm dứt khoát chọn lựa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô! Xin cho chúng con biết chấp nhận mọi đau khổ, thử thách, những thiếu thốn của cải vật chất ở đời này, biết nhận ra Thánh ý Chúa muốn nơi mỗi người chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm từ bỏ những tham vọng bất chính, những tính toán hẹp hòi để chọn cho mình một giá trị siêu việt nhất, là biết sống “tinh thần khó nghèo’ mà Chúa đã dạy chúng con để chúng con biết dùng những của cải mà Chúa đã ban trong tâm tình tạ ơn Chúa. Xin cho chúng con biết sống kết hiệp với những đau khổ của Chúa bằng cách chia sẻ với những người nghèo khổ, những người kém may mắn hơn chúng con bằng những việc làm bác ái cụ thể. Xin cho chúng con biết khao khát sức sống của Chúa để chúng con cảm nghiệm được Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa để trọn vẹn đời sống của chúng con chỉ thuộc về Chúa mà thôi. Amen
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Lối Ði Của Con Kiến
Một đàn kiến đông đảo vô cùng, không biết cơ man nào mà kể. Ấy thế mà chết cũng không biết bao nhiêu. Làm sao chúng bị chết? Trong đoàn kiến sống sót, có con kiến suốt đời u uẩn một mùa tang chế trong hồn nó. Ðoản bi ca ấy nó viết về sự sống đi bên cõi chết. Ðoản ca bắt đầu như thế này:
Phần một: Tiếng lòng u uẩn của con kiến
Tiếng kèn hối hả ban hành. Ðoàn đoàn, lũ lũ bước chân kiến chúng tôi réo gọi nhau lên đường. Một cuộc ra đi tìm đất sống mới. Dấp dáng biển đỏ và sa mạc, thấp thoáng mênh mông nắng đá trong ngày con cái Maisen tìm về đất hứa, chúng tôi cũng vậy. Cuộc ra đi thật ý nghĩa làm sao.
Trên hành trình ấy, sống và chết dựa lưng nhau như đau khổ và hạnh phúc của những chuyện tình. Hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng có thể như con sóng xô bờ, bất chợt đến. Chúng tôi băng qua ghềnh đá cheo leo. Chúng tôi chìm xuống vực sâu hiểm nghèo. Ðêm và ngày đều tắm đẫm bằng thách đố gian nan. Nhưng trong tim, chúng tôi cố giữ cho nhau lời ca và tiếng nhạc. Chúng tôi thổi xuống chân mình gió của tiếng kèn mơ ước. Chúng tôi đẩy gót chân nhau bằng nốt nhạc kiên nhẫn. Vì thế, chân chúng tôi bớt mỏi, lòng chúng tôi bớt ủ ê.
Qua bờ lau, đá cuội, qua rừng gai gian khổ, chúng tôi thấy ý nghĩa một cuộc lên đường đẹp như thế nào. Hành trình đi tìm đất sống, ngàn ngàn, lớp lớp chúng tôi đi tới như rừng sao chuyển mình. Băng qua những vùng tối tăm của rừng gai, trèo lên những khe nứt của đá cheo leo, mù mịt, thế mà không ai trong chúng tôi chết cả. Càng gần thách đố, chúng tôi càng thêm dũng cảm. Càng qua tăm tối, chúng tôi càng giăng mình dưới nhẫn nại.
Cuộc đời có những không ngờ của nó. Có ai ngờ, chúng tôi không chết ở rừng sâu núi đá, chúng tôi bị chết trước cửa đền thờ! Ðền thờ là nơi nhân ái, bao dung, thánh thiện, thế mà là mồ chôn đời chúng tôi.
Ngày đó, chúng tôi bị nghiền nát, không biết cơ may nào mà kể. Cho đến bao giờ loài kiến chúng tôi mới biết những bí ẩn của đền thờ và sự chết ấy.
Tôi viết bài ca này như tiếng thơ băn khoăn của lòng để hỏi cuộc đời về những huyền bí của cửa đền thờ và sự chết ở đó. Chúng tôi băng mình qua gian truân, qua góc tối xó nhà, qua khe nứt tường vôi, qua cheo leo vách ván, qua ẩm mốc chân cột, chúng tôi không chết. Ấy thế mà, thấy bóng lời kinh, thấy hương đạo hạnh, chúng tôi lại chết tức tưởi, chết ngay lối vào giáo đường.
Ðền thờ là gì?
- Tiếng thầm thì u uẩn trong hồn tôi là: Có khi nào cõi thánh là nghĩa trang buồn?
- Có khi nào cổng đền thờ là lối ra mất tâm đạo?
Từ bài ca của tâm, tôi muốn gọi vào cõi đời để hỏi những vì sao trên trời, để hỏi những bóng tối dưới vực sâu, đâu là ranh giới huyền bí giữa sống và chết, vì sao sự chết đã nắm bắt chúng tôi giữa những bậc thềm vào cõi thánh?
Phần hai: Một lối đi, một con đường.
Hạnh phúc có lối ngã riêng. Ðường vào cõi chết có tên gọi khác. "Hãy vào cửa hẹp vì đường rộng sẽ dẫn đên hư vong." Bầy kiến đến bậc cửa đền thờ, ôi! những bờ đá mênh mông, êm như dòng sông không gợn sóng. Buồn làm sao! định mệnh của những con đường thênh thang. Chúng đâu ngờ con đường thênh thang ấy dẫn vào cõi chết. Nhìn con đường thênh thang, bầy kiến quên rằng mỗi người có một lối đi, mỗi lối đi có một con đường. Và, mỗi con đường dẫn đến một khung trời khác nhau: Sự sống hay cõi chết.
Nhìn thấy thềm đá vào đền thờ rộng mênh mông, phẳng phiu, cứ thế chúng tôi ùa lên mà đi. Cứ mỗi bước chân con người dẫm lên bậc thềm, hàng trăm nhà kiến chúng tôi bi nghiền nát. Nhìn bậc cửa đền thờ mênh mông, bầy kiến chúng tôi quên rằng con đường an toàn của kiến là bờ vách, là góc đá, không phải mặt phẳng của các bậc thềm, không phải con đường thênh thang.
Con kiến viết những tiếng lòng u uẩn trên đây là con kiến đã chọn cho mình một lối đi rất hẹp, nó không bước trên thềm đá rộng của các bậc tam cấp mà cứ men theo kẽ góc mà đi. Con kiến nào bò sát trong góc của bậc thềm là băng qua được sự chết. Người ta cứ bậc thềm rộng mà giẫm chân lên, nên không biết cơ man nào là kiến đã bị giết chết.
Cũng vậy thôi, con đường hẹp sẽ dẫn vào Nước Trời, còn con đường thênh thang sẽ dẫn tới hư vong.
* * *
Con kiến hỏi tại sao, giữa cửa vào đền thờ mà cũng có sự chết. Nó muốn hỏi bóng tối dưới vực sâu, tại sao lối vào cõi thánh mà có u buồn nghĩa trang. Tiếng băn khoăn cõi lòng của nó, cũng có thể là tiếng Chúa vọng lên một âm vang đã lặng lẽ trong hồn con người từ lâu.
Người ta có thể bước vào đền thờ mà lối ấy không dẫn đến cõi tâm của Ðạo.
Người ta có thể từ đền thờ bước ra mà tâm vẫn không có hồn đạo.
Bởi, con đường dẫn tới cõi tâm vẫn là con đường Chúa đã căn dặn: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối này" (Mt. 7:13-14).
Xa giới luật Chúa, thì có bước vào đền thờ vẫn là bước ngoài tâm đạo. Cái chật chội của con đường hẹp là đưa mình vào giới luật. Với con đường hẹp ấy thì đi đâu cũng gặp Ðạo, vì cõi tâm lúc ấy chính là Ðường rồi.
Cứ hỏi lòng mình chứ đừng nhìn bước chân mình đang ở đâu. Có thể trong đền thờ mà hồn Ðạo không có trong tâm. Có thể trong đền thờ mà tính toán chuyện không thánh. Con đường hẹp ở trong cõi lòng.
* * *
Lạy Chúa,
Không phải cứ bước vào đền thờ là tìm thấy Ðạo. Không phải cứ bước ra khỏi đền thờ là có Ðạo.
Qua tiếng u uẩn trong lòng con kiến nhỏ, phải chăng Chúa nhắc nhở con về sự chết nguy hiểm của đường rộng dễ dãi ngay trong đền thờ.
Chúa muốn con hồi tâm, muốn con nhìn lại lối sống hôm nay và vẽ lại cho mình một lối đi.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
ÍT MÀ NHIỀU
Với điều xấu, thấy rõ ít, rõ nhỏ, nhưng lâu ngày và hành động được lập đi lập lại thì điều xấu nhỏ biến thành sự dữ đáng sợ. Lương tâm dần dần bị khô cằn già nua không còn nhạy bén, không còn phát hiện được điều dữ nữa, bởi con người đã được làm quen với tội một cách từ từ. Và ta làm nhiều điều xấu mà cứ nghĩ là ít, phạm nhiều tội lớn cứ nghĩ là nhỏ, chẳng ăn thua gì, không đáng bận tâm. Làm nhiều việc ác cứ nghĩ là việc thiện. Sống trong tội lại tưởng mình thánh thiện.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
RẤT CẦN ĐIỀM LẠ CHO HÔM NAY
Chúa nhật 2 mùa chay, năm C
(Lc 11,29-32 )
Thế giới càng văn minh, nhân loại càng tiến bộ với khoa học công nghệ hiên đại thì dường như sự âu lo, sự e ngại càng không giảm đi mà có phần tăng lên thêm và mang nhiều sắc thái khác nhau. Khi càng đầy đủ tiện nghi thì càng chất thêm nhiều nỗi lo sợ. Khi cuộc sống vật chất xem chừng được bảo đảm thì đời sống tinh thần lại bấp bênh. Một nghịch lý rất hiện sinh đã và đang làm đau đầu các nhà xã hội, luân lý và nhất là những ai còn có lương tri. Sống trong tình trạng bấp bênh thì ta luôn khao khát “sự đột biến”. Không lạ gì những khi mất chủ quyền, bị nô lệ thì dân Israel lại khát khao Đấng Thiên sai xuất hiện cách mãnh liệt. Càng không ổn định thì ta càng thích những chuyện “giật gân”, “chuyện la”. Các phương tiện truyền thông, các báo, đài không ngại ngần khai thác tâm lý này để thu lợi. Chuyện tình đổ vỡ giữa công nương Diana và hoàng tử Charles vương quốc Anh đã từng một thời trở thành món hàng kinh doanh của nhiều toà soạn, ký giả, phóng viên. Sự phong lưu đa tình của một nguyên thủ nước cờ hoa cũng đã là chuyện lạ đó đây. Có được mấy ai không thích chuyện lạ ? Chuyện lạ nào lại không gợi tính tò mò, gây sự chú ý ? Mở trang báo, thì tìm ngay mục chuyện lạ bốn phương. Dân Việt cũng hăm hở lên màn ảnh nhỏ với tiết mục“những chuyện lạ Việt Nam”. Thú thực, bản thân tôi đã từng không kìm được sự hiếu kỳ, một sự hiếu kỳ rất chi là “dân tộc tính”.
CÁM DỖ
TRONG BIỂN ĐỜI
(Suy niệm Lời Chúa CN 5 TN C)
Ngôn sứ Isaia tự bạch: “Bấy giờ tôi thốt lên: "Khốn thân tôi, tôi chết mất ! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh !" Một trong các thần Xêraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: "Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội." Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: "Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi cho chúng ta ?" Tôi thưa: "Dạ, con đây, xin sai con đi." ( Is 6, 5 – 8 )
Một sứ thần của Thiên Chúa đã gắp ngọn than hồng bỏ vào môi miệng người ô uế. Hòn than hồng thiêu cháy mọi lỗi lầm. Thiên Chúa đã hiến thánh người và người cất tiếng: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
Có thể nói, đó là khẳng định của một người làm tiên tri, một người nhận lãnh sứ mạng đi nói cho dân nghe biết về Thiên Chúa, đi mời gọi dân về sống trong mầu nhiệm Thiên Chúa, trong tình Cha con. Không một người được sai đi nào dám tự nhận mình đã hoàn thiện, nếu không có cái khẽ chạm của Thiên Chúa. Cái khẽ chạm của tình thương và nhờ tình thương ấy phát tác một sứ vụ, sứ vụ cao cả, sứ vụ loan báo tình thương ấy cho mọi người. Thi hành sứ vụ như một lẽ công bằng mà người nhận phải chu toàn.
Thánh Phaolô cũng nói đến cái khẽ chạm ấy, khi ngài tự bạch về cuộc đời ngài với lòng tri ân sâu xa, với ý thức trách nhiệm thật công bằng “nhận nhiều, cho đi nhiều”. Ngài nói: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” ( 1 Cr 15, 9 – 10 ).
Và còn hơn thế nữa, Thánh Phaolô nói đến sự hiệp thông của Tông Đồ Đoàn trong cùng một đường hướng giảng dạy của Chúa Giêsu, hiệp thông trong cùng một sứ vụ: “Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” ( 1 Cr 15, 11 ).
Trang Tin Mừng hôm nay, Lc 5, 1 – 11, Chúa Giêsu chọn các môn đệ Ngài trong hàng ngũ những người làm nghề đánh cá, những người ít học nhưng nhiệt thành, những người chấp nhận sai đi và vâng lời không tính toán. Hoặc nếu có tính toán thì cũng tính toán cách nào để chu toàn sứ vụ chứ không phải tính toán để tìm cách thoái thác hay trốn tránh: “Người bảo ông Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” ( Lc 5, 4 – 5 ).
Dẫu biết rằng có vất vả suốt đêm mà không được gì, nhưng Phêrô vẫn vâng lời Chúa Giêsu mà thả lưới và rõ là mẻ cá lạ lùng đã xuất hiện. Làm sao Chúa Giêsu có thể sánh với những người đánh cá chuyên nghiệp ? Họ có kinh nghiệm của họ trên biển, họ có thể xác nhận giờ cá đi cá về, nhưng họ vẫn hy sinh cái biết của họ để chấp nhận nghe và thực hành Lời Chúa, theo ý Chúa muốn. Hẳn là một sức mạnh của Thiên Chúa quyền năng đã cấy vào trong họ một niềm tin cậy mến vào Chúa Giêsu uy quyền.
Hãy khoan kể đến những người được ơn gọi riêng lãnh nhận những sứ vụ cao cả to lớn qua các thánh chức, nhưng hãy tri ân cảm tạ vì mỗi tín hữu chúng ta cũng đã lãnh nhận một chức thánh vô cùng cao quí: được trở nên con cái của Thiên Chúa qua Bí Tích Thánh Tẩy. Các tín hữu cũng được sai đi như Isaia, như Thánh Phaolô và như các Tông Đồ. Hòn than hồng trong miệng các tín hữu đang cháy tiêu bao điều ô uế, cái khẽ chạm của Thiên Chúa trong mỗi cuộc đời người đã quật ngã bao ý định ngông cuồng, và tình thương Chúa đã đưa mỗi tín hữu vào giữa biển đời sóng xô bão táp.
Các tín hữu, và nhất là các tín hữu thời nay, không đứng trước biển, không du lịch biển, không chụp hình biển lúc rạng đông hay khi chiều tà hắt ánh sáng vàng trên sóng… Không, trăm lần không. Các tín hữu đang dầm mình trong biển đời luôn động, luôn dậy sóng, luôn ầm lên lắng xuống, luôn chao đảo chòng chành. Họ đang là những ngư phủ nghèo khổ kiếm từng cái ăn cho linh hồn họ:
-Một nhóm người chạy đôn chạy đáo làm ăn mày cho những ca cấp cứu thập tử nhất sinh.
-Một nhóm khác thu gom những xác thai nhi chưa kịp sinh ra đã nằm trong sọt rác như thu gom những xác thánh.
-Một đám lu-xu-bu ồn ào tíu tít kéo nhau đi thăm và khuấy động khu vườn yên tĩnh của những người HIV tưởng như là tuyệt vọng.
-Một ê-kíp bán rau quả giữa chợ đời chở rau về bệnh viện mỗi sáng, để có những bữa cơm từ thiện cho người đang triền miên vất vả nuôi con.
-Một tập thể ve chai liên kết can đảm, vừa làm xanh-sạch thành phố vừa kiếm cái sống lương thiện, lại vừa có với nhau kinh nguyện sớm hôm để làm nên những niềm vui thường bị người đời xem là mạt hạng...
-Thiết nghĩ, phải kể đến những người bị cho là ít học, được tuyển vào làm chiến sĩ của Mẹ, âm thầm, khiêm tốn, rảo khắp các khu ổ chuột, gầm cầu xó chợ, hoặc cùng cốc buôn làng, để tìm về cho Chúa những linh hồn đáng được lòng Chúa xót thương...
-Cũng còn phải kể đến một rừng người thắp nến đêm đêm xin trời cao ngó xuống những đau thương dập vùi trên biển vì những cơn sóng vô thần kiêu hãnh đang hành hạ tàn hung những người thân chài lưới...
Quả thật, tất cả các tín hữu đang trong biển, trên sóng. Họ không được học Thần Học kinh điển. Họ không được đào tạo trường lớp chính quy đến nơi đến chốn. Thậm chí họ là những người thất học hay mù chữ. Họ là những con người mạt rệp trong xã hội hoặc lắm khi còn bị kết tội là quấy nhiễu Giáo Hội. Họ chỉ có lòng Tin Cậy Mến Chúa Giêsu. Và lòng Tin Cậy Mến của họ không cho phép họ ung dung đứng trước biển du lịch nhàn rỗi thong dong. Họ chấp nhận ra khơi. Và đã ra khơi thì phải thả lưới để kiếm sống, một cuộc sống sung mãn niềm vui của những người bé nhỏ: “Vâng lời thầy, con thả lưới”.
Lạy Chúa, chúng con đã từng là những người môi miệng ô uế như Isaia, từng là những người ngược đãi Hội Thánh Chúa như Phaolô, và là những con người ít học, thấp kém, mạt rệp như các Tông Đồ tiên khởi của Chúa Giêsu, nhưng chúng con đã được nhận cái khẽ chạm của Chúa để biến đổi thành con cái Chúa. Xin giúp chúng con chu toàn nhiệm vụ đền đáp ơn Ngài bằng việc trầm mình trong biển đời, để đem về cho Chúa các linh hồn đáng được lòng Chúa xót thương. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 4.2.2010
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++