PHÁN XÉT VÀ HỎA NGỤC
Thế Hùng
Mùa hè năm 1999, tạp chí La Civilta Catolica của Dòng Tên ở Ý mà các bài đăng thường được xem là có sự chuẩn thuận của Toà Thánh đã có một bài bình luận về đề tài hoả ngục trong đó tác giả cho rằng hoả ngục không phải là một nơi chốn nhưng là tình trạng của một người chịu đau khổ vì không có Chúa. Vài ngày sau đó, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô trong một buổi triếu yết chung tại Vatican đã phát biểu rằng: "Thay vì là một nơi chốn, hoả ngục chỉ tình trạng những người tự tách rời mình vĩnh viễn ra khỏi Thiên Chúa trong sự tự do của họ." Ðể diễn tả tình trạng này, Ðức Thánh Cha nói rằng, Kinh Thánh "dùng ngôn ngữ biểu tượng" minh hoạ trong biển lửa những ai tự loại trừ chính mình ra khỏi sổ hằng sống và như thế gặp phải cái chết thứ hai."
Bài bình luận của La Civilta Catolica và nhất là lời tuyên bố của Ðức Gioan Phaolô II khiến một số nhà giảng thuyết Tin Lành chỉ trích Ðức Thánh Cha đã "giội nước vào lửa hoả ngục" vì đã làm xói mòn học thuyết về tính cách lịch sử của kinh thánh và buông xuôi một thứ vũ khí thần học mạnh mẽ của Giáo hội trong cuộc chiến chống lại sự dữ. Mục sư Albert Mohler, Hiệu trưởng Trường Thần học Southern Baptist ở Louisville, tiểu bang Kentucky, đoan quyết rằng: "Kinh thánh rõ ràng có nói về hoả ngục là một nơi chốn vật chất có sự tra tấn mãnh liệt và cảnh cáo chúng ta nên sợ hãi nó." Giáo sư Douglas Groothuis của Chủng viện Tin lành ở Denver thêm rằng, đối với những kẻ tội lỗi không ăn năn sám hối, "việc tách rời khỏi Thiên Chúa có thể xem như là tự do không còn bị ràng buộc bởi một người phối ngẫu hay cha mẹ thống trị. Vậy tại sao lại phải sợ điều đó chứ?"
Dĩ nhiên Ðức Thánh Cha không có ý loại bỏ nọc độc của hoả ngục. Tuy vậy, ngày nay khi hình ảnh hoả ngục thường được gợi lên trong các trang tranh vẽ của trẻ em thay vì được rao trên bục giảng, nhận xét của Ðức Gioan Phaolô II về hoả ngục nhằm mục đích lấy lại và cập nhật hoá tín lý về hoả ngục mà đã bị lãng quên từ lâu để từ đó có thể giúp cho người tín hữu sống đạo đức hơn. Theo sử gia Martin Marty, giáo sư danh dự của Ðại học Thần học Chicago và là một chuyên viên về lịch sử Giáo hội: "Nếu Ðức Thánh Cha gợi lên hình ảnh hoả ngục với những ngọn lửa và một con quỷ màu đỏ với cái chĩa ba, người ta sẽ không lấy làm quan tâm lắm đâu vì giống như là tranh biếm hoạ."
Dù sao đi nữa, quan điểm về hình ảnh hoả ngục mang tính cách biểu tượng đi đôi với quan điểm của đa số dân chúng ngày nay. Một cuộc thăm dò dư luận gần đây của Tuần báo U.S. News & World Report cho thấy ngày nay có nhiều người Mỹ tin vào hoả ngục hơn là trong những năm 1950 hay ngay cả 10 năm về trước. Nhưng như Ðức Thánh Cha, đa số nghĩ hoả ngục là "tình trạng hiện hữu thống khổ"hơn là một nơi chốn thật sự.
Hoả ngục ăn sâu trong giáo huấn của Do thái giáo và Kitô giáo. Trong thời Kinh thánh sơ khởi, các quan niệm về hoả ngục không rõ ràng cho lắm. Chẳng hạn, bản văn Do thái của các sách Khởi nguyên, Các Vua quyển 1, Thánh vịnh, và Gióp, đề nghị là tất cả những ai qua đời, cả người công chính lẫn người độc ác, đều được gửi xuống một thế giới âm u gọi là Sheol một chỗ như Hades của huyền thoại cổ Hy lạp có nghĩa là "âm phủ," nơi không có vui cũng không có hình phạt. Ví dụ, trong sách Khởi nguyên, tổ phụ Giacóp tin rằng Giuse con mình đã chết nên than khóc: "Ta sẽ để tang con ta mà xuống âm phủ với nó" (St 37:35).
Vào thế kỷ thứ 2 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, khi Kinh Thánh Do thái được dịch sang tiếng Hy lạp, từ Hades thay thế Sheol trong Kinh thánh Hy lạp, và trong sự suy nghĩ của dân chúng hai ý niệm này hòa lẫn với nhau. Sau này, khi một số thành phần trong đạo Do thái bắt đầu tin vào kết cuộc phục sinh của người chết, Hades không còn là nơi "trung lập" nhưng trở thành chốn tạm dung của những linh hồn người độc ác mà thôi (Kn 4:19) còn người công chính về thẳng thiên đàng chờ đợi thân xác phục sinh. Còn hình phạt của hoả ngục trong thời này được trình bày rất gợi hình qua ý niệm Gehenna. Chữ Gehenna là tiếng Hy lạp lấy gốc từ tiếng Do thái Gehinnom để chỉ về Thung lũng hoang vắng Hinnom ở phía nam Giêrusalem, nơi có những cuộc sát tế con người cho các thần xứ Canaan (2 V 23:10) và sau này dùng để chỉ một nơi lửa không hề tắt và sâu bọ không hề chết đồng thời cũng là nơi các thây ma phản loạn với Thiên Chúa được những người hành hương lên Giêrusalem chứng kiến (Is 66:24).
Qua thời Tân Ước, các tác giả Sách Thánh vẫn sử dụng sự hiểu biết về hoả ngục theo truyền thống đạo Do thái. Từ Gehenna xuất hiện 11 lần trong Phúc Âm Nhất Lãm. Cách nói và hình ảnh truyền thống về hoả ngục như lửa, sự tăm tối, giòi bọ, tiếng rống, nghiến răng, v.v... (Mt 3:12; 5:22; 5:29ff; 10:28; 13:42, 50; 18:9; 23:15,33: Mk 9:43ff; Lc 13:28).
Riêng Phúc Âm theo Thánh Gioan mặc dầu không dùng từ Gehenna vẫn nói về hình phạt bằng sự phán xét và tối tăm. Nhưng trên hết, hình phạt là bị gạt ra ngoài sự sống viên mãn ban bởi Người Con (Ga 2:19; 8:24; 10:28).
Thánh Phaolô cũng diễn tả ý tưởng hình phạt đời đời nhưng không có hình ảnh cụ thể như trong các sách khác của Tân Ước. Thánh Phaolô nói về sự hủy diệt đời đời, bị xua đuổi khỏi mặt Thiên Chúa (2 Tx 1:9; Rm 9:22; Phi 3:19). Thư gửi giáo đoàn Rôma có nói đến "gian truân, quẫn bách trên mạng mọi người làm sự dữ" (Rm 2:9).
Trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan hình ảnh về hoả ngục mãnh liệt hơn. Những ai bị xét là không xứng đáng sẽ bị "quăng vào vũng lửa diêm sinh, đó là cái chết thứ hai" (Ga 21:8). Còn trong thư thứ hai của Thánh Phêrô, thế giới u ám tối tăm là phần dành riêng cho người ác độc (2 Pr 2:17). Thư của Thánh Giuđa sử dụng hình ảnh xiềng xích đời đời, nơi tối tăm, lửa thiêu đời đời (Gđ 6-7).
Nhiều vị Giáo Phụ tiên khởi trong đó có Thánh Giêrôm cho rằng hoả ngục là nơi người dữ sẽ chịu phạt hình cảm giác đau đớn. Dẫu vậy, linh mục Origen ở Alexandria (thế kỷ thứ 3) và Thánh Grêgôry Nyssa (thế kỷ thứ 4) cho rằng hoả ngục là nơi đau khổ về mặt thiêng liêng hơn là về mặt thể lý, tức là sự dày vò và xa cách Thiên Chúa. Vào thế kỷ thứ 5, Thánh Âugustinô đưa ra giải pháp trung dung bằng cách cho rằng đau khổ trong hoả ngục bao gồm cả phần thiêng liêng lẫn giác quan, một ý niệm vẫn còn phổ biến ngày nay.
Trong khi đa số các Giáo Phụ dạy rằng mục đích của hoả ngục là trừng phạt người tội lỗi không biết ăn năn hối cải, Origen chủ trương hoả ngục có tính cứu chữa nghĩa là trong hoả ngục người tội lỗi nhất còn có thể phục hồi và cuối cùng cũng được về cùng Chúa trên nước thiên đàng. Quan điểm này của Origen bị Giáo Hội bác bỏ ở Công đồng Constantinople năm 543. Và trong khi một ít thần học gia thời bấy giờ tin rằng người tội lỗi rồi cũng bị diệt vong, đa số cho là những hình phạt thống khổ trong hoả ngục không bao giờ dứt.
Vào đầu thế kỷ 14, hình ảnh về hoả ngục với những tầng khác nhau dưới mặt đất cùng với các cảnh tra tấn rùng rợn đã in sâu vào trí tưởng tượng của dân chúng qua tác phẩm Divine Comedy ("Tấn hài kịch thần thánh") của thi sĩ Dante người Ý. Hai trăm năm sau đó, giới lãnh đạo Cải Cách Tin Lành bác bỏ những lối diễn tả kinh khiếp về hoả ngục trong hội hoạ và văn chương. Trong khi Martin Luther và Gioan Calvin nhìn đến hoả ngục như là một nơi chốn thật sự, họ tin rằng những tra tấn khốc liệt chỉ mang tính tượng hình. Hai người cho rằng, nỗi đớn đau khốn cùng nhất người trong hoả ngục là sự kinh hoàng và hoàn toàn thất vọng vì phải đời đời xa cách Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 17 và thế kỷ 18, quan niệm về hoả ngục như là một nơi mà người dữ phải chịu đau khổ về thể xác và thiêng liêng trở lại trong đầu óc quần chúng. Nhưng rồi đến thế kỷ 19 và thế kỷ 20, ý tưởng phạt đời đời trong chốn hoả ngục bị bác bỏ.
Có thể nói rằng thế kỷ 20 gần như sắp chứng kiến cái chết của hoả ngục khi vị có nhiệm vụ giảng dạy cả trong Công Giáo lẫn Tin Lành thích thú với những đề tài làm cho tinh thần con người phấn chấn hơn. Vào thập niên 1960, mối đe doạ hình phạt đời đời trong lửa hoả ngục đối với người không biết ăn năn sau khi qua đờihầu như không còn nữa. Việc giảng dạy về hoả ngục trong các trường thần học hầu như không có. Ðồng thời, trong khi đa số những cuộc thăm dò dư luận cho thấy đa số người Mỹ tin là có hoả ngục, hầu như không có ai nghĩ là mình sẽ đi đến đó. Một vài năm trước đây, nhà sử học Marty của Ðại học Chicago có nhận xét rằng "hoả ngục biến mất mà không có ai chú ý cả."
Khi trình bày quan điểm của mình về hoả ngục, Ðức Gioan Phaolô II làm rõ giáo huấn lâu đời của Hội thánh Công Giáo mặc dầu ít được nhấn mạnh trong thời đại ngày nay: Hình phạt chính của hoả ngục là vĩnh viễn xa rời Thiên Chúa, nơi Ðấng mà con người mới có thể tìm thấy sự sống và hạnh phúc (GLCG 1035). Giáo lý Công Giáo dạy rằng: "Chết trong tội trọng mà không sám hối và không đón nhận tình thương đầy từ bi của Thiên Chúa, có nghĩa là sẽ mãi mãi lìa xa Chúa do sự tự do lựa chọn của ta. Và từ ‘hoả ngục’ được dùng để chỉ tình trạng ly khai cách chung cuộc khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh trên trời" (GLCG 1033). Và trong khi giáo lý ghi lại những đoạn Tân Ước đề cập đến hình phạt hoả ngục như "lửa đời đời" (GLCG 1034), Ðức Thánh Cha mô tả những đoạn này như là "hình ảnh" được sử dụng một cách tượng hình và do đó phải được giải thích một cách đúng đắn.
Hơn nữa, Ðức Gioan Phaolô II còn tuyên bố rằng hoả ngục "không phải là một hình phạt do Thiên Chúa áp đặt từ bên ngoài" nhưng là hậu quả đương nhiên do người tội lỗi không ăn năn sám hối chọn lựa sống xa Thiên Chúa. Chúng ta không nên xem Thiên Chúa như là một ông vua độc tài tàn bạo thích trả thù. Ngược lại, Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài muốn mọi người được cứu rỗi nhưng Ngài lại không cưỡng bức ý chí tự do của họ. Có người còn lập luận xa hơn nữa, cho rằng hoả ngục là hình phạt dành cho người từ chối ân sủng của Thiên Chúa đến giây phút cuối đời, do đó họ không thể nào có hạnh phúc nếu được cho lên thiên đàng đi nữa. Lý do, bởi vì chối bỏ và ghét Chúa nên thiên đàng đối với họ cũng chỉ là hoả ngục mà thôi. Như thế, chúng ta phải tự nhắc nhở rằng chính chúng ta nếu từ chối ân sủng Chúa, chúng ta sẽ tự ký bản án hoả ngục cho chính mình. Tuy vậy, theo lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng ta nên chú ý đến điều này, đó là: "Ý tưởng hoả ngục không được gây ra nỗi lo âu hay nản lòng" nhưng là "một sự nhắc nhở cần thiết và lành mạnh về giá trị tự do."
Trong các bài giảng thuyết ở trường và nhà thờ, Cha Steven Happel, Khoa trưởng Phân khoa Nghiên cứu Tôn giáo của Ðại học Công Giáo Hoa Kỳ tại thủ đô Washington D.C., cho hay ngài nói về hoả ngục "qua thực trạng tự cô lập chính mình và hoàn toàn hướng về bản thân mà không có quan hệ với ai cả. Ðối với tôi, đây là một ẩn dụ mạnh mẽ về sự tách rời với Thiên Chúa. Là một người rao giảng, tôi thấy điều này có hiệu quả hơn là nói về những ngọn lửa vật tính."
Cũng theo các học giả, đối với nhiều người Kitô hữu sống ở các thế kỷ đầu tiên, hình ảnh khủng khiếp về hoả ngục chắc hẳn đã có hiệu lực trong việc làm cho người ta nhận ra hậu quả kinh hồn do việc chối bỏ Thiên Chúa.
Ðể gây lại ý niệm về hoả ngục qua ngôn từ và hình ảnh thời đại ngày nay, theo lời Cha Thomas Reese, SJ, Chủ biên của Tuần báo America của Dòng Tên ở Bắc Mỹ, điều đó không có nghĩa là cứ để mặc ai muốn nói sao cũng được. Cha Hapel cho rằng, "Không phải như thể là chỉ việc nói ‘Chúng tôi không tin vào lửa hoả ngục nữa đâu, vậy chúng ta hãy tạo cái gì cho mới mẻ." Thật ra, truyền thống Giáo Hội Công Giáo ngay từ đầu và qua 2000 năm nay cho thấy Giáo Hội luôn cẩn trọng suy tư trong quá trình phát triển học thuyết. Chẳng hạn, cộng đồng Kitô hữu phải mất 300 năm mới đưa ra định nghĩa rõ ràng về học thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi và 125 năm nữa để nói rõ về 2 bản chất thiên tính và nhân tính của Ðức Kitô ở Công đồng Chalcedon. Theo Cha Happel, "Giáo Hội phải giải thích và áp dụng Kinh Thánh trong bối cảnh văn hoá đương thời nếu muốn trung thành với ý tưởng mạch văn."
Liệu mối răn đe về hoả ngục có thực sự làm người ta sống đạo đức hơn không? Cha Reese nhận xét rằng, ở một mức độ phát triển sơ khởi, với trẻ em chẳng hạn, việc thưởng phạt có thể giúp chúng chọn lựa cho đúng về mặt luân lý, nhưng với thiếu niên và người lớn thì ít có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Cha Reese cũng nhìn nhận: "Có những lúc chúng ta trở lại hành vi sơ khởi khi chúng ta giận dữ muốn làm hại người nào đó. Nếu lúc đó ý niệm hoả ngục giữ ta khỏi làm điều ác này thì chúng ta thấy điều đó hẳn là có ích lắm chứ!"
Một điều cũng cần nên biết là mặc dầu Giáo Hội Công Giáo có tuyên phong các thánh, tin tưởng rằng những vị này đang vui hưởng hạnh phúc đời đời cùng với Thiên Chúa, Giáo Hội không hề tuyên bố chính thức danh tính một cá nhân nào đang sống trong cảnh hoả ngục hay không mặc dầu hành vi ác độc của người đó khiến cho cả thế giới phỉ nhổ.
Cho dù đó là một nơi chốn hay là một tình trạng, hoả ngục để lại dấu ấn lâu dài trong đời sống tôn giáo. Và cho dù có người vẫn thích giữ hình ảnh lửa lưu huỳnh thiêu đốt dữ dội, hoặc đi tìm kiếm những cách giải thích mới, hoặc có những người muốn bác bỏ hoả ngục cho đó là sự tưởng tượng của người thuộc giới bình dân, thì chắc chắn những hình ảnh mạnh mẽ về hoả ngục vẫn tiếp tục đi suốt lịch sử loài người như là một nhắc nhở quyết liệt về thực tại tội ác và hậu quả ghê gớm của nó. Ðồng thời, từ đó, con người học biết sử dụng chính đáng sự tự do Thiên Chúa ban cho để đón nhận thay vì từ chối ân sủng của Ngài để rồi ra sức hoạt động vinh danh Ngài cũng như phục vụ không biết mệt mỏi cho tha nhân.
(Theo Catholic Digest, Feb. 2001)
(Bỏ trong frame)
CÁC TÔN GIÁO VÀ Ý NIỆM VỀ HOẢ NGỤC
Không chỉ Kitô giáo mới có học thuyết về hoả ngục. Mối đe doạ về sự trừng phạt đau đớn ở đời sau còn được tìm thấy trong các tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Theo Do thái giáo, ý niệm Hades là nơi dành cho các vong hồn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Nhưng kể từ thế kỷ thứ 19, khi ông Moses Mendelssohn, một triết gia người Ðức có ảnh hưởng lý luận rằng hình phạt đời đời là không hợp với lòng thương xót của Thượng Ðế, ý tưởng về hoả ngục theo nghĩa đen đã bị bác bỏ phần lớn. Ðồng thời một nhà thông thái vào thế kỷthứ 12 tên là Moses Maimonides dạy rằng việc nhắc đến hoả ngục trong Kinh Thánh phải được hiểu một cách hình tượng. Ngoại trừ Do thái giáo thuộc ngành Chính thống, niềm tin vào sự sống đời sau hầu như biến mất khỏi đạo Do thái ngày nay.
Ðối với Hồi giáo, hoả ngục là một hố lửa dưới một cây cầu hẹp mà mọi linh hồn phải bước qua để vào thiên đàng. Những ai mà Allah (Thượng Ðế) xét rằng không xứng thì rơi xuống hố lửa và phải chịu hình phạt thể lý đời đời ở một trong 7 tầng hoả ngục. Kinh Koran sử dụng hình ảnh như Kinh Thánh để diễn tả về hoả ngục: "hồ lửa," "chiếc giường thiêu đốt khổ sở" nơi người độc ác và những kẻ vô đạo phải chịu đau khổ không dứt và chỉ được uống thứ "nước sôi hôi hám."
Theo Ấn Ðộ giáo, linh hồn trên đường đầu thai phải trải qua một trong 21 hoả ngục để đốt cháy nghiệp báo. Một khi được thanh luyện, linh hồn đó được luân hồi ở một trạng thái cao hơn ở cuộc sống kế tiếp. Những linh hồn nào mà nghiệp báo không quá xấu có thể đầu thai trở lại thành con vật. Chẳng hạn, một người ăn trộm thịt có thể đầu thai thành một con kên kên, một tên trộm ngũ cốc biến thành con chuột. Những linh hồn nào mà nghiệp báo quá xấu xa trở thành những loại đồ vật. Người độc ác nhất bị kết án ở hoả ngục thấp nhất nơi họ có thể bị nấu trong những vạc dầu sôi hay bị quạ xâu xé thịt.
Phật giáo, như Ấn Ðộ giáo, cũng nói về một số hoả ngục như những chặng dừng trong hành trình của một người tiến về niết bàn. Theo Phật giáo vì con người không có linh hồn, năng lực nghiệp quả người đó được luân hồi từ cõi sống này qua cõi sống khác. Theo Phật giáo truyền thống, có 7 loại hoả ngục nóng rực với những phòng hành hình, một hố lửa, và một bãi lầy chờ đợi những ai làm điều ác. Theo Phật giáo Tây Tạng, có 8 hoả ngục lạnh lẽo với những hoả ngục ngoài cùng dành cho những ai ít tội.
Theo Lão giáo, người chết được gửi về một trong những Phật cảnh, đến núi ở của các vị bất tử, hay đi đến một trong những hoả ngục.
Trong khi một số tôn giáo bộ lạc ở Á châu và Phi châu tin vào án phạt hoả ngục, đa số các tôn giáo của người dân bản xứ ở Bắc Mỹ không tin vào điều này.
Mặc cho có những sự khác biệt, các tôn giáo cùng chia sẻ niềm tin chung ở chỗ một số tội ác quá nặng nề không thể trừng phạt thích đáng nơi cõi đời này và do đó phải có một hình phạt sau cái chết.
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Website Hội Thánh Công Giáo MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn
"Anh em đừng có lòng chai dạ đá , cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng…Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng..." (Đnl 15: 7-11)
Nếu những người giàu có biết chia sẻ của cải cho những người nghèo thì thế giới sẽ không còn người bị chết vì đói nữa...
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++